CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 08/1999/NQ-CP
|
Hà Nội, ngày 09 tháng 7
năm 1999
|
Trong 2 ngày 5 và 6 tháng
7 năm 1999, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 6 năm 1999 đã quyết định một số
biện pháp cần tập trung chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch 6 tháng cuối năm
1999 như sau:
A. TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM
Trong 6 tháng đầu năm 1999,
Chính phủ đã tập trung chỉ đạo đồng bộ việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm
trong Chương trình công tác của Chính phủ: đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông
thôn; tháo gỡ ách tắc trong sản xuất, kinh doanh, tạo thuận lợi cho nhân dân và
doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh; thực hiện các giải pháp
kích cầu và phát huy nội lực; tạo điều kiện tốt hơn cho đầu tư trực tiếp nước
ngoài; thúc đẩy cải cách và thực hiện có hiệu quả công tác quản lý tài chính,
tiền tệ; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại; thực hiện chương trình xoá đói, giảm
nghèo, tập trung vốn xây dựng cơ sở hạ tầng ở 1000 xã đặc biệt khó khăn; đấu
tranh phòng chống tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội, tiếp tục thực hiện đợt cao
điểm phòng chống ma tuý...
Trong chỉ đạo điều hành, Chính
phủ đã kịp thời đề ra những quyết sách đúng, tập trung chỉ đạo có trọng tâm, trọng
điểm, theo đúng chương trình công tác đã đề ra từ đầu năm, với quyết tâm cao nhất,
phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ
đó, trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thử thách, tình hình kinh tế - xã hội 6
tháng đầu năm 1999 tiếp tục ổn định; kinh tế vẫn tăng trưởng; lĩnh vực văn hóa,
xã hội có bước tiến bộ; an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững;
quan hệ quốc tế tiếp tục được mở rộng.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế-xã
hội cũng bộc lộ nhiều mặt yếu kém, nổi lên là : tốc độ tăng GDP đạt thấp hơn so
với cùng kỳ nhiều năm trước, sản xuất công nghiệp tăng trưởng chậm, lượng hàng
hóa tồn kho tăng, thị trường trong nước kém sôi động; đầu tư xây dựng cơ bản
chưa có chuyển biến tích cực, đầu tư của Nhà nước triển khai chậm, đầu tư trực
tiếp của nước ngoài giảm mạnh, đầu tư của doanh nghiệp và của nhân dân vẫn trì
trệ; số người không có hoặc thiếu việc làm tiếp tục tăng; một số tệ nạn xã hội,
nhất là nạn ma tuý, mãi dâm, tiếp diễn phức tạp; tình trạng vi phạm trật tự, kỷ
cương, pháp luật còn khá nặng trong đời sống xã hội.
B. CÁC GIẢI
PHÁP ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ 6 THÁNG CUỐI NĂM 1999
Trong 6 tháng cuối năm 1999, bên
cạnh việc tiếp tục chỉ đạo thực hiện các giải pháp đã đề ra, Chính phủ tập
trung chỉ đạo thực hiện 7 nhóm giải pháp lớn sau đây:
I. CÁC GIẢI
PHÁP KÍCH CẦU ĐẦU TƯ VÀ TIÊU DÙNG NHẰM PHÁT HUY NỘI LỰC, KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN
SẢN XUẤT, KINH DOANH.
1. Tập trung chỉ đạo thực hiện
các biện pháp huy động và giải ngân các nguồn vốn để bảo đảm tổng mức vốn đầu
tư xây dựng cơ bản đã đề ra đầu năm.
a) Ngay trong tháng 7 năm 1999,
các Bộ, ngành, địa phương cần rà soát, đánh giá lại toàn bộ tình hình triển
khai thực hiện các công trình xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn ngân sách năm
1999; những công trình nào đã có khối lượng thực hiện thì khẩn trương hoàn
thành các thủ tục để thanh toán và cấp phát tạm ứng khối lượng đã thực hiện
theo quy định.
Bộ Tài chính thực hiện việc ứng
trước 40 - 50% giá trị khối lượng còn lại của kế hoạch năm 1999 để đẩy nhanh tiến
độ xây dựng.
b) Đối với nợ khối lượng xây dựng
cơ bản năm 1996 - 1997, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thanh toán và đã
thông báo đến các Bộ, ngành, địa phương. Các Bộ, ngành, địa phương cần khẩn
trương hoàn thiện hồ sơ để thanh toán dứt điểm trong Quý III năm 1999.
c) Đối với dự án sử dụng nguồn vốn
hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), các Bộ, ngành, địa phương cần tập trung
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thực hiện các biện pháp để đẩy nhanh tiến độ giải
ngân theo kế hoạch. Trước hết, cần tập trung chỉ đạo sâu sát và kết hợp đồng bộ
các biện pháp : kinh tế, hành chính, tuyên truyền, giáo dục để giải quyết tốt
việc đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng. Trong tháng 7 năm 1999, Bộ Tài chính
chủ trì trình Thủ tướng Chính phủ đề án xử lý chính sách thuế đối với các dự án
ODA.
d) Đối với tín dụng đầu tư, Bộ
Tài chính, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các đầu mối cho vay khẩn trương triển
khai việc huy động 7.400 tỷ đồng để cho vay theo mục tiêu quy định tại Quyết định
số 146/1999/QĐ-TTg ngày 1 tháng 7 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ. Các Bộ,
ngành, địa phương cần chỉ đạo chuẩn bị tốt các dự án vay vốn đầu tư; rà soát lại
toàn bộ dự án vay vốn tín dụng đầu tư, những dự án nào có hiệu quả, có khả năng
thu hồi vốn thì kịp thời thẩm định, phê duyệt dự án theo đúng quy định, chấm dứt
tình trạng "vốn chờ dự án".
đ) Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo
các ngân hàng thương mại ưu tiên bố trí vốn cho vay đối với các thành phần kinh
tế trong các lĩnh vực nuôi tôm xuất khẩu, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, trồng
rừng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản với lãi suất hợp lý; cần đi sâu bám sát các
đối tượng vay vốn để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về thủ tục, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn. Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu để sớm thực
hiện việc mở rộng mức vốn cho vay đối với hộ nông dân phù hợp với nhu cầu vốn sản
xuất theo từng ngành nghề, thay đổi quy định về thủ tục thế chấp vay vốn theo
hướng: đối với hộ nông dân chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu
có nhu cầu vay vốn thì cần có xác nhận của ủy ban nhân dân xã về diện tích đất
hộ nông dân đang sử dụng, không có tranh chấp.
e) Đối với nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, cần chỉ đạo thực hiện tốt Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26
tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích đầu
tư trực tiếp nước ngoài; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng với các Bộ, ngành
liên quan theo dõi quá trình thực hiện và đề xuất biện pháp tiếp tục tháo gỡ vướng
mắc trình Thủ tướng Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đang thực
hiện đầu tư và đang hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất
sự giảm sút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong tháng 8 năm 1999, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ đề án về tiêu chí cho phép các doanh nghiệp
liên doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và đầu tư mới theo
phương thức này.
2. Huy động thêm 4000 tỷ đồng
thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước để bổ sung cho các công trình giao thông,
thuỷ lợi, y tế, giáo dục; cho chương trình cung cấp nước sạch miền núi, vùng
sâu, vùng xa; cho chương trình giải quyết việc làm, di dân tự do và phát triển
kinh tế, xã hội các xã nghèo biên giới chưa được đầu tư trong diện 1000 xã
nghèo.
Số vốn nêu trên được ưu tiên bố
trí cho những công trình cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng để đưa vào sử dụng
trong năm 1999 và năm 2000; bố trí đủ vốn đối ứng của các dự án có vốn ODA; các
công trình cấp bách thuộc ngành giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo dục đã đủ thủ
tục cần khởi công mới nhưng đầu năm chưa có vốn để bố trí.
3. Thực hiện các biện pháp kích
cầu trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn.
a) Trong tháng 7 năm 1999, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì xây dựng trình Chính phủ kế hoạch
kiên cố kênh mương với cơ chế huy động vốn : đối với việc kiên cố hoá kênh
mương liên huyện, liên xã, nguồn vốn đầu tư được trích từ thuế sử dụng đất nông
nghiệp và thu thuỷ lợi phí hàng năm, nếu thiếu sẽ được vay từ nguồn vốn tín dụng
ưu đãi, ngân sách nhà nước sẽ bù chênh lệch lãi suất; đối với việc kiên cố hoá
kênh mương liên thôn, nội đồng, thực hiện theo phương thức dân đóng góp lao động,
Nhà nước hỗ trợ vật tư xây dựng. Trước mắt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chỉ đạo thực hiện tốt ở tỉnh Thanh Hoá và tỉnh Nghệ An, sau đó rút kinh
nghiệm mở rộng ra các địa phương khác.
Trong tháng 7 năm 1999, Bộ Tài
chính hướng dẫn các địa phương việc sử dụng các nguồn thu từ thuế sử dụng đất
nông nghiệp, thuỷ lợi phí và các nguồn thu khác để thực hiện kiên cố hoá kênh
mương.
b) Trong tháng 8 năm 1999, Bộ
Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
xây dựng trình Chính phủ kế hoạch nâng cấp mặt đường giao thông nông thôn. Việc
nâng cấp mặt đường giao thông nông thôn được thực hiện theo phương thức huy động
đóng góp của nhân dân, ngân sách hỗ trợ một phần kinh phí.
c) Nhà nước dành một khoản vốn
tín dụng ưu đãi cho ngân sách cấp tỉnh, thành phố vay xây dựng các công trình
kiên cố hoá kênh mương, nâng cấp mặt đường giao thông và điện khí hoá nông thôn
thuộc đối tượng đầu tư của ngân sách để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, ngân sách
cấp tỉnh, thành phố sẽ bố trí vốn trả trong một số năm sau. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải,
Bộ Công nghiệp, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước xác định nhu cầu vốn cần bố
trí cho vay trong năm 1999 trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
4. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ
để tiêu thụ sản phẩm, tăng sức mua của dân cư.
a) Các Bộ, ngành cần chỉ đạo, hướng
dẫn các doanh nghiệp thực hiện các giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng và
hạ giá thành sản phẩm, có phương án hạ giá bán một số sản phẩm, nhất là các sản
phẩm còn tồn đọng lớn hoặc các sản phẩm thiết yếu.
Đối với một số mặt hàng còn tồn
đọng lớn như than, xi măng, thép xây dựng, có thể thực hiện phương thức bán
hàng trả chậm cho các hộ tiêu dùng, Nhà nước sẽ cho dãn nợ vốn vay của Ngân
hàng và kéo dài thời hạn nộp thuế tương ứng với giá trị hàng hoá bán trả chậm.
Trong tháng 7 năm 1999, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
cơ chế này.
Trong tháng 7 năm 1999, Thủ tướng
Chính phủ ban hành cơ chế mua, bán hàng trả góp nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ một
số mặt hàng sản xuất trong nước.
b) Các bộ và địa phương chỉ đạo
thực hiện tốt việc tiêu thụ nông sản cho nông dân, biện pháp quan trọng là đẩy
mạnh tìm kiếm thị trường, khuyến khích các thành phần tham gia xuất khẩu.
c) Mở rộng mô hình liên kết giữa
cơ sở chế biến với cơ sở sản xuất nguyên liệu theo các hợp đồng kinh tế lâu
dài. Các cơ sở chế biến tạo điều kiện ứng vốn, vật tư, giống và hỗ trợ kỹ thuật
cho các cơ sở sản xuất nguyên liệu. Đối với các loại nông sản không qua chế biến
thì tổ chức mua trực tiếp, hỗ trợ cho nông dân tiêu thụ hết sản phẩm hàng hoá của
mình. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo thực hiện việc này.
II. CÁC GIẢI
PHÁP KHUYẾN KHÍCH XUẤT KHẨU.
1. Trong tháng 7 năm 1999, Bộ
Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để
hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản. Nguồn vốn hình thành Quỹ được
trích một phần từ nguồn thu chênh lệch giá hàng xuất, nhập khẩu, phí cấp hạn ngạch
xuất, nhập khẩu và phí cấp chứng nhận xuất xứ hàng xuất khẩu (C/O)... Trước mắt,
chuyển toàn bộ số vốn còn lại của Quỹ bình ổn giá để làm vốn ban đầu của Quỹ hỗ
trợ xuất khẩu.
2. Bộ Thương mại cùng các ngành
hữu quan đàm phán với các nước : Nga, I-Rắc, I-Ran... để tăng khối lượng xuất
khẩu các mặt hàng nông sản như cao su, chè, thịt, rau quả...theo phương thức
hàng đổi hàng hoặc bán trả chậm. Nhà nước có chính sách tài trợ hàng nông sản
xuất khẩu vào thị trường này.
3. Bộ Thương mại chỉ đạo chặt chẽ
các doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu trong quá trình đàm phán với các chủ
hàng hoặc các đối tác, cần kết hợp việc nhập khẩu máy móc thiết bị với việc xuất
khẩu hàng hoá của ta, hạn chế nhập siêu.
4. Bộ Tài
chính nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8 năm 1999 chế độ chi tiền
hoa hồng trong giao dịch để đẩy mạnh xuất khẩu.
III. CÁC GIẢI
PHÁP VỀ TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ.
1. Trong tháng 7 năm 1999, Bộ
Tài chính nghiên cứu để trình Chính phủ sửa đổi một số quy định về thuế giá trị
gia tăng nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; soát xét lại biểu giá tối thiểu
tính thuế xuất, nhập khẩu cho phù hợp; xem xét điều chỉnh lại cơ chế hoàn thuế
và chỉ đạo chặt chẽ việc tổ chức thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu.
2. Bộ Tài chính phối hợp với các
Bộ, các địa phương tập trung chỉ đạo ngành thuế, hải quan bám sát tình hình sản
xuất, kinh doanh để thu đúng, thu đủ các khoản thu phát sinh theo luật định;
tăng cường kiểm tra, giám sát chống thất thu, tồn đọng, ẩn lậu tiền thuế; quản
lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách, kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện tiết kiệm
chi, sử dụng nguồn dự phòng ngân sách cho các nhiệm vụ cấp bách theo đúng quy định.
3. Ngân hàng Nhà nước khẩn
trương hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Luật Các tổ chức tín dụng.
Trong tháng 7 năm 1999, trình Thủ
tướng Chính phủ phương án bỏ lãi suất trần, chuyển sang điều hành theo lãi suất
cơ bản phù hợp với Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế cho
vay, nâng cao năng lực thẩm định và trách nhiệm của các tổ chức tín dụng; chỉ đạo
các ngân hàng thương mại đi sát cơ sở, nắm tình hình sản xuất, kinh doanh và
nhu cầu vay vốn của các đối tượng vay vốn, bố trí đủ vốn để cho vay, đáp ứng kịp
thời vốn cho sản xuất, kinh doanh trên cơ sở bảo đảm hiệu quả của vốn cho vay.
Theo dõi chặt chẽ diễn biến thị
trường trong và ngoài nước để điều hành tỷ giá linh hoạt, bảo đảm khuyến khích
xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng giao dịch kiều hối qua ngân hàng, tăng dự
trữ ngoại tệ.
IV. CÁC GIẢI
PHÁP VỀ ỔN ĐỊNH MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ SẢN XUẤT, KINH DOANH VÀ TIẾP TỤC SẮP XẾP LẠI
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn
trương triển khai việc hướng dẫn thực hiện Luật Doanh nghiệp, nhằm tạo môi trường
kinh doanh ổn định, bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp.
2. Tổng cục Địa chính phối hợp với
các tỉnh, thành phố chỉ đạo thực hiện các biện pháp đẩy mạnh việc hoàn thành cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất ở nông thôn
theo Chỉ thị số 18/1999/CT-TTg ngày 1 tháng 7 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ.
3. Các Bộ, ngành, địa phương tiếp
tục chỉ đạo thực hiện kế hoạch cổ phần hoá và giao, bán, khoán, cho thuê doanh
nghiệp nhà nước. Khẩn trương ban hành Nghị định của Chính phủ về giao, bán,
khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước; lập quỹ khuyến khích cổ phần hoá; đồng
thời, nghiên cứu điều chỉnh lại cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần
hoá, bỏ quy định khống chế tỷ lệ mua cổ phần. Bộ Tài chính nghiên cứu trình Thủ
tướng Chính phủ phương án cơ cấu lại nợ của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần
hoá và giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp theo hướng : đối với phần nợ
ngân sách đã xác định là không thu hồi được thì cho xoá nợ; nợ ngân hàng không
thu hồi được thì cho khoanh nợ, hoặc xoá nợ, kèm theo biện pháp xử lý tài chính
đối với ngân hàng.
4. Trong tháng 8 năm 1999, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư trình phương án thí điểm bán phần vốn góp của Nhà nước trong
các liên doanh với nước ngoài cho các nhà đầu tư trong nước để tạo thêm kênh
huy động vốn trong nước và góp phần tạo nguồn ngân sách nhà nước, bán lại cổ phần
của Nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá không cần thiết có
vốn nhà nước; phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn thực
hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước
ngoài nhằm huy động vốn, công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, mở
rộng thị trường đầu tư phát triển doanh nghiệp.
V. TẬP TRUNG
CHỈ ĐẠO CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO, HỖ TRỢ CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN.
1. Các Bộ, ngành liên quan và
các tỉnh, thành phố chỉ đạo chặt chẽ, khẩn trương việc triển khai thực hiện
Chương trình Quốc gia về xoá đói, giảm nghèo. Các tỉnh, thành phố khẩn trương
giúp các xã nghèo đặc biệt khó khăn xây dựng dự án và nhanh chóng hoàn thành
các thủ tục cần thiết để giải ngân nhanh nguồn vốn này; đồng thời, cấp tạm ứng
vốn để các xã triển khai thực hiện các dự án, công trình đã được duyệt; tăng cường
việc kiểm tra, giám sát để bảo đảm vốn được đưa đến dân, chống thất thoát, lãng
phí vốn.
Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ
hàng tháng về tình hình thực hiện Chương trình này để kịp thời chỉ đạo và có biện
pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
2. Uỷ ban Dân tộc và Miền núi phối
hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các địa phương xây dựng các
giải pháp ngăn chặn di dân tự do; tập trung giải quyết ổn định đời sống của
nhân dân vùng cao, các xã nghèo biên giới. Xây dựng các mô hình nông, lâm kết hợp
trên đất dốc và hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật đến từng hộ gia đình nhằm khắc
phục tình trạng di cư, du canh, du cư, chặt phá rừng làm nương rẫy, hoặc phá rừng
trồng cây công nghiệp.
3. Bộ Y tế phối hợp với ủy ban
Quốc gia Dân số - Kế hoạch hoá gia đình thực hiện chương trình phát triển y tế
cơ sở ở các vùng nghèo, xã nghèo; phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,
Bộ Tài chính xây dựng phương án giải quyết khó khăn về bảo hiểm y tế cho 4 triệu
người nghèo. Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện chương trình phát triển giáo dục ở
vùng nghèo, củng cố và xây dựng trường lớp, thu hút con em đồng bào dân tộc, đồng
bào nghèo vào học tập, thực hiện chế độ miễn học phí và các chính sách ưu tiên
đối với con em những gia đình nghèo.
VI. VỀ LĨNH VỰC
XÃ HỘI.
1. Thực hiện các giải pháp đấu
tranh và phòng ngừa nạn ma tuý trong thanh niên. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp
với Bộ Công an và các cấp chính quyền địa phương, nhất là ở các thành phố lớn,
tiếp tục thực hiện kế hoạch làm trong sạch môi trường và phòng, chống nghiện ma
tuý trong học sinh, sinh viên, kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới xoá bỏ về
cơ bản nạn ma tuý trong học sinh, sinh viên.
2. Để giảm bớt tai nạn giao
thông, cần tăng cường tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành luật lệ
giao thông; đồng thời, tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị định số 36/CP của Chính
phủ và có biện pháp kiểm tra, xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật lệ
giao thông.
3. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện
các lĩnh vực y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hoá, thể dục, thể
thao, quốc phòng, an ninh...theo nhiệm vụ và chương trình đã đề ra.
4. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ
Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét để thực hiện việc
trợ cấp một lần trong 6 tháng cuối năm 1999 đối với các đối tượng chính sách.
VII. VỀ CHỈ ĐẠO,
ĐIỀU HÀNH.
1. Các Bộ, ngành và địa phương cần
xây dựng chương trình, kế hoạch và có biện pháp cụ thể để tiếp tục thực hiện mạnh
mẽ và có hiệu quả Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
Trung ương 6 (lần 1), Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển nông nghiệp,
nông thôn và Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 1999, Chương trình công
tác của Chính phủ năm 1999 và các giải pháp nêu trong Nghị quyết này.
2. Đề cao trách nhiệm và phát
huy vai trò của các thành viên Chính phủ trong việc thực hiện nhiệm vụ theo dõi
và giúp đỡ địa phương; các thành viên Chính phủ cần có kế hoạch phối hợp với Chủ
tịch tỉnh, thành phố để chỉ đạo thực hiện tốt công việc. Sau phiên họp này, các
thành viên Chính phủ làm việc cụ thể với các tỉnh, thành phố được phân công
theo dõi để thông báo nội dung và biện pháp tổ chức thực hiện Nghị quyết này.
3. Tăng cường công tác thông
tin, báo cáo, công tác kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Chính phủ và Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ.
a) Các Bộ, ngành, địa phương cần
thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo theo Quy chế làm việc của Chính
phủ, tạo nguồn thông tin thông suốt, kịp thời phát hiện những ách tắc, khó khăn
và chủ động giải quyết trong phạm vi quyền hạn của mình; đề xuất các giải pháp
cụ thể để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn... giúp Thủ tướng Chính phủ kịp thời xử
lý, điều hành.
Thủ trưởng các Bộ, ngành, địa
phương cần trực tiếp chỉ đạo công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết
của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
b) Văn phòng Chính phủ thường
xuyên theo dõi, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện
Chương trình làm việc, Nghị quyết của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, đặc biệt tập trung vào một số lĩnh vực công tác trọng điểm; kịp thời
báo cáo, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ có các biện pháp chấn chỉnh, xử lý sai
phạm...
c) Các Bộ, ngành cần thường
xuyên tìm hiểu và phản ảnh ý kiến của các doanh nghiệp và của các nhà đầu tư đối
với việc ban hành, tổ chức thực hiện và tính khả thi của các cơ chế, chính sách
của Nhà nước.
d) Hàng tháng, Thủ tướng và các
Phó Thủ tướng Chính phủ tổ chức làm việc với các Bộ, ngành thuộc lĩnh vực được
phân công theo dõi để kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện trong tháng và đề
ra các biện pháp tiếp tục chỉ đạo thực hiện, để tổng hợp vào báo cáo chung do Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn bị.
4. Đẩy mạnh cải cách hành chính,
đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, tổ chức bộ máy và
công tác cán bộ.
a) Các đồng chí Bộ trưởng, Thủ
trưởng các cơ quan cần tập trung chỉ đạo việc soạn thảo các văn bản được phân
công, phối hợp với các cơ quan chức năng làm đúng quy trình xây dựng và thẩm định
theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số
101/CP ngày 23 tháng 9 năm 1997; khắc phục tình trạng văn bản của cấp trên phải
chờ văn bản của cấp dưới mới thi hành được.
b) Khắc phục tình trạng đùn đẩy
công việc lên cấp trên và lên Thủ tướng Chính phủ. Các Bộ, ngành cần rà soát,
kiểm tra để phân loại công việc thuộc thẩm quyền của cấp Bộ, ngành phải xử lý;
kiên quyết trả lại những việc thuộc thẩm quyền của cấp dưới, đồng thời không
trình Thủ tướng Chính phủ những việc thuộc thẩm quyền của mình.
c) Các Bộ, ngành, địa phương tiếp
tục thực hiện rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là số cán bộ thực
thi chính sách, cán bộ quản lý doanh nghiệp, kiên quyết thay thế những cán bộ
có sai phạm, cán bộ kém phẩm chất và năng lực công tác, bằng những cán bộ có đủ
năng lực và phẩm chất để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý và hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Chấn chỉnh lề lối và phong
cách làm việc; tăng cường công tác phối hợp trong xử lý công việc.
5. Tiếp tục triển khai kiểm điểm
theo kế hoạch 01 và 03 của Bộ Chính trị. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, lãnh đạo địa phương cùng Ban Cán sự
và cấp ủy tổ chức việc kiểm điểm ở Bộ, cơ quan mình nhằm đạt được các mục tiêu
và yêu cầu mà Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) đã đề ra.