BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG
----------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 04-NQ/TW
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 10
năm 2016
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ TƯ
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ XII
VỀ TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG; NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI SỰ SUY THOÁI
VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, NHỮNG BIỂU HIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ
CHUYỂN HOÁ” TRONG NỘI BỘ
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Tình hình
Nhìn một cách tổng thể, trong suốt
quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, hơn 86 năm
qua Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học;
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi
khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã
lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển
kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của
nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đảng
ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ
có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng
góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản
chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta - Đảng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng đã tạo được những chuyển biến tích cực
trong hệ thống chính trị. Quá trình tự phê bình và phê bình
đã góp phần đấu tranh với những suy nghĩ và hành vi sai trái nhằm cảnh tỉnh, cảnh
báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Nhiều vụ án
tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều
tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Công tác đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
đạt được một số kết quả; tích cực đấu tranh phòng, chống
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Những kết
quả đó đã góp phần quan trọng vào thành công của đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội
XII của Đảng và bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng còn
không ít hạn chế, khuyết điểm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu,
hình thức, hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ
chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu.
Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ,
đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu;
còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt mục
tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn
còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu
tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Việc
phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với
tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến
tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập
trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở
mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Nhiều tổ chức
đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh
giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái,
xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn
chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn
tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng
và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên
làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương
tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp
đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.
2- Nguyên nhân
Tình hình trên có cả nguyên nhân
khách quan và chủ quan, trong đó, nguyên nhân chủ quan là
chủ yếu.
1) Nguyên nhân khách quan:
Tác động từ khủng
hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị
trường, những hoạt động lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Những khó khăn, thách thức của các nước
đi theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế hiện nay; nhiều vấn đề
mới, phức tạp phát sinh từ thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả.
Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh
thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn
đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh
giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ suý cho lối sống hưởng thụ, thực
dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa; đồng thời, cấu kết với các phần tử cơ hội và bất
mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy
hiểm hơn.
2) Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình
trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những
cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững
vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa
cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn
trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy
và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội
dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống
nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” và những hậu quả gây ra. Sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi
bộ ở nhiều nơi còn hình thức, đơn điệu.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp
tình hình thực tế. Chưa chú trọng xây dựng, tuyên truyền, nhân rộng những mô
hình mới, điển hình tiên tiến, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực.
Một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi và thiếu chế tài xử
lý. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, người đúng đầu các cấp
chưa có quyết tâm chính trị cao; việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa
phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại
cấp trên; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp
cao thiếu tiên phong, gương mẫu. Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm còn nương
nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Chưa có cơ chế khen thưởng những tập thể, cá nhân tổ chức thực hiện nghị quyết sáng tạo,
có hiệu quả và xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện
không nghiêm túc.
Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ
chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa chưa kịp thời. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động
kém hiệu lực, hiệu quả. Cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn
nhiều sơ hở. Thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản
lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín, trì trệ trong công
tác, kém hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Chậm
ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”.
Đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn
nể nang, cục bộ. Một số cơ chế, chính sách trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa
công bằng; chính sách tiền lương, nhà ở chưa tạo được động lực cống hiến cho
cán bộ, công chức.
Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của
Đảng chưa nghiêm, còn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng dưới”. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên còn thiếu chặt chẽ. Nguyên tắc
tập trung dân chủ ở nhiều nơi bị buông lỏng; nguyên tắc tự phê bình và phê bình
thực hiện không nghiêm, chưa có cơ chế để bảo vệ người đấu tranh phê bình. Sự
phối hợp giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ nghiêm
minh. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu; việc
kê khai tài sản, thu nhập còn hình thức.
Chưa chủ động và thiếu giải pháp phù
hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế
sâu rộng và công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển mạnh
mẽ. Việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp đủ
mạnh để đấu tranh có hiệu quả với các thông tin sai lệch, phản bác lại những luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn
chính trị.
Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông và
nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.
II- NHẬN DIỆN NHỮNG
BIỂU HIỆN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, “TỰ DIỄN BIẾN”,
“TỰ CHUYỂN HOÁ”
1- Biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị
1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao
động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài
nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh.
2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng;
không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm
quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4) Không chấp hành nghiêm các nguyên
tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né
tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại
khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn
chức trách, nhiệm vụ được giao.
5) Trong tự phê bình còn giấu giếm,
không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự
giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va
chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh
bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động
cơ cá nhân không trong sáng.
6) Nói và viết không đúng với quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với
làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong
hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi
đương chức với lúc về nghỉ hưu.
7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm
theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
8) Tham vọng chức quyền, không chấp
hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có
nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng
nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động,
tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành
mạnh.
9) Vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập
trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ
nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.
2- Biểu hiện về suy thoái đạo đức,
lối sống
1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực
dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể;
ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
2) Vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc
đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
3) Kê khai tài sản, thu nhập không
trung thực.
4) Mắc bệnh “thành tích”, háo danh,
phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi;
thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh
hiệu”.
5) Quan liêu, xa rời quần chúng,
không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa
phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó
khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện
gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài
nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử
dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử
dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.
7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác
để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao
che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
8) Thao túng trong công tác cán bộ;
chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người
thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.
9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín
dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp
pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.
3- Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ
1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên
tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.
2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi
thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Phủ nhận nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai.
3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận
những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc
lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo
Đảng, Nhà nước.
4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng
chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông
tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò
lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân.
5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi
chính trị hoá” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội
và công an.
6) Móc nối, cấu kết với các thế lực
thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng,
quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và
Nhà nước.
7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một
chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội
không theo đường lối của Đảng; cổ suý cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan;
thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn
giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để
gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc
và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
III- MỤC TIÊU,
QUAN ĐIỂM
1- Mục tiêu
Nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện
đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy
lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết khắc
phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự
tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên
lợi ích cá nhân, thực sự là cán bộ của dân, phục vụ nhân dân. Củng cố niềm tin
của nhân dân đối với Đảng.
2- Quan điểm
Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật,
đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây”
là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách.
Kiên quyết, kiên trì thực hiện với
quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản
lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là
nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu quả, nhất là những vụ
việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp. Giữ vững
nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của
Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội,
bất mãn chính trị.
IV- CÁC NHÓM NHIỆM
VỤ, GIẢI PHÁP
Đại hội XII đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ
xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên
quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa “ trong nội bộ. Vì
vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả các nhóm nhiệm
vụ, giải pháp sau:
1- Về công tác chính trị tư tưởng,
tự phê bình và phê bình
1) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng
cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết
của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ
lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông
tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng
địa phương. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ
Chính trị.
2) Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng; đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh nghiệm hay; khuyến khích
phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của
Đảng. Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn
với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và
học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ
trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.
3) Xây dựng và thực hiện có hiệu quả
nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây
dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng
và với nhân dân. Hằng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên có cam kết
rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam
kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
4) Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc
quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng
chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và bí thư cấp ủy các cấp.
5) Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức
để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê
bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm
và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp
dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Hoàn thiện quy chế đánh giá cán bộ một cách khoa học,
phù hợp; quy định lấy phiếu tín nhiệm ở các cấp, các ngành
định kỳ hoặc đột xuất.
6) Tăng cường quản
lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, Internet, mạng xã hội. Phát huy vai
trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí
trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Chủ động định hướng, cung cấp
thông tin thường xuyên hoặc đột xuất; chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, những nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt. Khen thưởng kịp
thời những tập thể, cá nhân có thành tích; xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân
vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền.
7) Chủ động chuẩn bị các phương án,
biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản
bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu
xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính
trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
8) Hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát
ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm những cá nhân, nhóm người cấu kết
với nhau, lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc để tuyên
truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái.
Tổ chức diễn đàn trao đổi, đối thoại những vấn đề còn có nhận thức, quan điểm
khác nhau liên quan đến đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
9) Cấp ủy, chính quyền và người đứng
đầu các cấp phải xây dựng kế hoạch, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra,
giám sát, khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân. Chú trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục, rèn luyện phong cách làm việc khoa học, cụ thể, sâu sát cơ sở cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
10) Hằng năm hoặc khi chuẩn bị đề bạt,
luân chuyển, điều động công tác đối với cán bộ, tiêu chí
quan trọng để đánh giá, xếp loại tổ chức và cán bộ, đảng viên là: chương trình
hành động của tập thể và cá nhân; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; kết quả
thực hiện cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối
sống; tự phê bình và phê bình; sự nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý; hiệu
quả đấu tranh, khắc phục suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”.
2- Về cơ chế, chính sách
1) Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo
rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc
thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu
trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm tập thể, cá nhân
trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế tài xử lý nghiêm những hành
vi vi phạm. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế, cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về
năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết
tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu. Trước mắt, rà soát, kiểm tra, xử lý dứt điểm các vụ việc vi phạm trong thực
thi quyền lực gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
2) Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo
rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều
hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xoá bỏ cơ chế “xin - cho”, “duyệt -
cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, “sân sau”, trục
lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài
chính, ngân hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử dụng biên chế... Tăng
cường hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền, chuyển mạnh
từ thanh toán tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt.
3) Kiên quyết thực hiện đúng mục
tiêu, có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế gắn với cải cách
chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đổi mới
chính sách tiền lương. Thực hiện chế độ hợp đồng có thời hạn
đối với viên chức nhà nước. Xây dựng và thực hiện chính sách nhà ở nhằm tạo động
lực cho cán bộ, công chức theo hướng nhiều chủ thể tham gia, hạn chế tối đa việc
sử dụng ngân sách nhà nước.
4) Đẩy mạnh xã hội hóa, tách cung ứng dịch vụ công và quản lý sản xuất
kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; khắc phục tình trạng quan liêu, cửa
quyền, sách nhiễu, tiêu cực của cán bộ, công chức. Rà soát, thoái vốn, cổ phần
hóa, chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp quân đội và
công an sản xuất kinh doanh thua lỗ, không phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
5) Đẩy mạnh cải cách hành chính trong
Đảng; rà soát, sửa đổi, hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ
cán bộ, đảng viên; khắc phục ngay tình trạng ăn uống, chè chén, “liên hoan”, “gặp
mặt” không lành mạnh, với động cơ không trong sáng; khắc
phục những bất hợp lý trong công tác cán bộ, như: phân
công, phân cấp, thẩm quyền quản lý, quy trình bổ nhiệm,... nhằm bảo đảm nguyên
tắc bình đẳng, tổng thể, liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị
và chấn chỉnh, khắc phục tình trạng kén chọn vị trí, chức danh trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
6) Hoàn thiện quy định về tổ chức, bộ
máy và công tác bảo vệ chính trị nội bộ; bảo đảm sự trong
sạch về chính trị trong nội bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược. Chú trọng nắm tình hình và giải quyết tốt vấn
đề chính trị hiện nay; chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các đối tượng chống đối, phần tử
cơ hội, bất mãn chính trị. Rà soát, hoàn thiện quy định về quản lý cán bộ, đảng
viên nghiên cứu, học tập, lao động và công tác ở nước ngoài. Phát huy vai trò,
trách nhiệm của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương trong đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”.
3- Về
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
1) Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám
sát định kỳ hoặc đột xuất việc tổ chức thực hiện các nghị
quyết, kết luận của Đảng. Xử lý nghiêm tập thể, cá nhân ban hành văn bản không
đúng, không phù hợp hoặc thực hiện không nghiêm túc các nội
dung nghị quyết, kết luận của Đảng; khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân thực
hiện có hiệu quả.
2) Các cấp ủy, tổ chức đảng tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát và công khai kết quả để góp phần đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bộ Chính trị, Ban Bí thư
và ban thường vụ cấp ủy các cấp chỉ đạo rà soát ngay đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý thuộc quyền và xử lý nghiêm những trường hợp suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không bảo đảm về tiêu chuẩn, điều kiện,
quy trình bổ nhiệm, năng lực và hiệu quả công tác thấp, nhất là những trường hợp người nhà, người thân của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp có nhiều
dư luận.
3) Nâng cao hiệu quả hoạt động của
Ban Chỉ đạo Trung ương và cơ quan thường trực về phòng, chống tham nhũng.
Nghiên cứu việc tăng thẩm quyền và chế tài xử lý trách nhiệm
của ủy ban kiểm tra các cấp trong việc kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng viên. Rà soát, hoàn thiện các quy định của Đảng
và Nhà nước về xử lý kỷ luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước.
4) Tăng thẩm quyền và đề cao trách
nhiệm người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác cán
bộ dưới quyền để kiểm điểm khi có dấu hiệu vi phạm hoặc chậm trễ, trì trệ, kém
hiệu quả trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; đồng thời, xem xét tư
cách đảng viên và phối hợp với các cơ quan chức năng có biện pháp ngăn chặn
hành vi bao che, cản trở, gây khó khăn trong xử lý hoặc có dấu hiệu bỏ trốn.
5) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra, giám sát; phát huy vai trò của các cơ quan thanh tra,
kiểm tra, điều tra và các cơ quan tư pháp
để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xử lý nghiêm
minh đối với những cán bộ sai phạm theo quy định của pháp luật; trước mắt tập trung xử lý dứt điểm các vụ tham nhũng nghiêm trọng, phức
tạp được dư luận xã hội và nhân dân quan tâm và công khai kết quả xử lý.
6) Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm
phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công
bằng, cấp ủy các cấp chỉ đạo nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên; đồng thời,
tiến hành rà soát, sàng lọc và đưa ngay những người không còn
đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
7) Thực hiện nghiêm việc kê khai tài
sản, thu nhập theo quy định; xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám
sát việc tăng giảm tài sản của cán bộ, đảng viên. Cơ quan đề xuất đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định, xác minh, đánh giá tính trung thực của
việc kê khai tài sản, thu nhập và công khai theo quy định.
8) Xây dựng quy định xử lý những tập
thể, cá nhân suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có lời nói và việc làm biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
nghiêm trọng. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức đảng phải chịu trách nhiệm nếu
không kịp thời phát hiện hoặc phát hiện mà chậm xử lý đối với các biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
4- Về phát huy vai trò của nhân
dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội
1) Các cấp ủy, chính quyền phải nhận
thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW về quy chế
giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013
của Bộ Chính trị quy định về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -
xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
2) Tăng cường công tác dân vận của Đảng
và của chính quyền; phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội, của nhân dân, báo chí và công luận trong đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Thực
hiện nghiêm túc, có hiệu quả phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra. Trước mắt, tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm những vấn đề bức xúc của
nhân dân.
3) Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm mọi chính sách, pháp luật
của Nhà nước phải theo đúng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng và phải
xuất phát từ nguyện vọng chính đáng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
4) Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp
nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến
nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện Quy định
về việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan, cán bộ,
công chức trực tiếp giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; có hình
thức xử lý đối với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp.
5) Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích
cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
V- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Bộ Chính trị
ban hành Kế hoạch thực hiện, xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức đảng
ở Trung ương và trực thuộc Trung ương; phân công cụ thể và chỉ đạo, kiểm tra,
đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết.
2- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng
Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, thể chế hoá, cụ thể hóa nội
dung Nghị quyết thành các văn bản pháp luật để thực hiện.
3- Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng
đoàn, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy, cơ quan trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt, chủ động
xây dựng kế hoạch, đề án cụ thể để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.
Ban Chấp hành Trung ương tin tưởng rằng,
với truyền thống cách mạng vẻ vang và bản chất tốt đẹp của
Đảng, ý thức tự giác của từng cán bộ, đảng viên, sự gương mẫu của từng đồng chí
Uỷ viên Trung ương, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp và được nhân dân đồng tình, ủng hộ, nhất định toàn Đảng sẽ thực hiện thắng lợi mục
tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết, để Đảng ta thật sự vững vàng về chính trị và tư tưởng,
thống nhất cao về ý chí và hành động, trong sạch về đạo đức và lối sống, chặt
chẽ về tổ chức, đủ sức lãnh đạo đưa đất nước ngày càng phát triển, xứng đáng với
lòng tin yêu của nhân dân.
Nghị quyết này phổ biến đến chi bộ.
|
T/M
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Phú Trọng
|