Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Nghị định 241-HĐBT năm 1991 quy định về tổ chức và hoạt động của các ban thanh tra nhân dân do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 241-HĐBT
Ngày ban hành 05/08/1991
Ngày có hiệu lực 05/08/1991
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Võ Văn Kiệt
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 241-HĐBT

Hà Nội, ngày 05 tháng 8 năm 1991

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 241-HĐBT NGÀY 5-8-1991 QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC BAN THANH TRA NHÂN DÂN 

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4 tháng 7 năm 1981;
Căn cứ Pháp lệnh thanh tra ngày 1 tháng 4 năm 1990;
Sau khi thoả thuận với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
Theo đề nghị của Tổng thanh tra Nhà nước,

NGHỊ ĐỊNH:

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. - Ban Thanh tra nhân dân là tổ chức thanh tra của quần chúng được thành lập ở xã, phường, thị trấn (gọi tắt là xã, phường) và ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh (gọi tắt là cơ quan, đơn vị) nhằm đảm bảo quyền giám sát, kiểm tra của quần chúng đối với mọi tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật ở trong phạm vi xã, phường; cơ quan, đơn vị. Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường do quần chúng bầu ra Mặt trận Tổ quốc xã, phường tổ chức, chỉ đạo hoạt động. Ban thanh tra nhân dân ở cơ quan, đơn vị do đại hội của những người lao động bầu ra, Ban chấp hành Công đoàn cơ sở chỉ đạo hoạt động.

Điều 2. - Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn chung đã được quy định tại điều 27 Pháp lệnh thanh tra. Khi được tổ chức thanh tra Nhà nước yêu cầu thì Ban thanh tra nhân dân tiến hành kiểm tra.

Điều 3. - Các Uỷ viên Ban thanh tra nhân dân phải là người lao động sản xuất và công tác tốt, trung thực và công tâm, có hiểu biết nhất định về chính sách, pháp luật, có uy tín đối với tập thể và tự nguyện làm công tác thanh tra nhân dân.

Điều 4. - Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân phải đảm bảo khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời. Ban thanh tra nhân dân thực hiện chế độ làm việc tập thể và biểu quyết theo đa số. Trưởng ban thanh tra nhân dân điều hành công tác chung của Ban thanh tra nhân dân và phối hợp với các đoàn thể khác trong địa phương, cơ quan, đơn vị để thực hiện tốt nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân.

Điều 5. - Khi thực hiện nhiệm vụ Ban thanh tra nhân dân có quyền:

1. Yêu cầu cá nhân, tổ chức có liên quan ở địa phương, đơn vị cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật Nhà nước tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình;

2. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì lập biên bản, kiến nghị với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, hoặc thủ trưởng cơ quan, đơn vị, hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó;

3. Thông qua hoạt động của mình, Ban thanh tra nhân dân kiến nghị với Chủ tịch Uỷ ban nhân dânxã, phường, hoặc thủ trưởng cơ quan, đơn vị kịp thời khắc phục những sai sót, sơ hở trong quản lý điều hành. Trong trường hợp yêu cầu kiến nghị của Ban thanh tra nhân dân không được giải quyết, Ban thanh tra nhân dân được quyền kiến nghị lên thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc thanh tra Nhà nước cấp trên trực tiếp của cơ quan, đơn vị.

Chương 2:

TỔ CHỨC VÀ HỌAT ĐỘNG CỦA BAN THANH TRA NHÂN DÂN CỦA XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN

Điều 6.

1. Căn cứ vào địa bàn và số lượng dân cư, mỗi Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường có từ 5 đến 11 Uỷ viên, do Hội nghị nhân dân hoặc Hội nghị đại biểu nhân dân tại các xóm, ấp, bản, cụm dân cư bầu bằng hình thức bỏ phiếu kín theo giới thiệu của Mặt trận Tổ quốc cơ sở. Uỷ viên Ban thanh tra nhân dân không phải là người đương nhiệm trong cơ quan Uỷ ban nhân dân xã, phường, Ban thanh tra nhân dân bầu một Trưởng ban, một Phó ban.

2. Mặt trận Tổ quốc xã, phường ra quyết định công nhận Ban thanh tra nhân dân và các uỷ viên, thông báo trước Hội đồng nhân dân cùng cấp trong kỳ họp gần nhất. Uỷ viên Ban thanh tra nhân dân nào không hoàn thành nhiệm vụ hoặc không còn được nhân dân tín nhiệm thì Mặt trận Tổ quốc xã, phường đề nghị Hội nghị nhân dân hoặc Hội nghị đại biểu nhân dân đã bầu ra Uỷ viên đó bãi miễn và bầu người khác thay thế.

3. Nhiệm kỳ của Ban thanh tra nhân dân xã, phường là 2 năm.

Điều 7.

1. Ban thanh tra nhân dân căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường và chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc cùng cấp đề ra phương hướng, nội dung chương trình hoạt động của mình.

2. Mặt trận Tổ quốc xã, phường chỉ đạo, hướng dẫn chương trình hành động, nội dung công tác và theo dõi thường xuyên các hoạt động của Ban thanh tra nhân dân; xem xét và ủng hộ những kiến nghị đúng đắn của Ban thanh tra nhân dân. Ban thanh tra nhân dân báo cáo về hoạt động của mình trong các phiên họp thường kỳ của Mặt trân Tổ quốc xã, phường. Trưởng ban thanh tra nhân dân được mời tham gia các cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc xã, phường.

3. Thanh tra Nhà nước huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hướng dẫn nghiệp vụ cho các Ban thanh tra nhân dân.

4. Uỷ ban nhân dân xã, phường có trách nhiệm thông báo cho Ban thanh tra nhân dân biết các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Uỷ ban nhân dân xã, phường và xem xét giải quyết kịp thời của các kiến nghị của Ban thanh tra nhân dân.

5. Uỷ ban nhân dân xã, phường có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi và phương tiện cần thiết cho Ban thanh tra nhân dân hoạt động như chỗ làm việc, giấy bút, kinh phí hoạt động... Xử lý nghiêm khắc các hành vi cản trở hoạt động, đặc thù các Uỷ viên Ban thanh tra nhân dân.

Điều 8.

[...]