Nghị định 140-HĐBT năm 1991 quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 140-HĐBT
Ngày ban hành 25/04/1991
Ngày có hiệu lực 25/04/1991
Loại văn bản Nghị định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Võ Văn Kiệt
Lĩnh vực Thương mại,Vi phạm hành chính

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 140-HĐBT

Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 1991

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 140-HĐBT NGÀY  25-4-1991 QUY ĐỊNH VỀ KIỂM TRA, XỬ LÝ VIỆC SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ 

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG 

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4 tháng 7 năm 1981;
Căn cứ vào điều 167 của Bộ Luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Pháp lệnh chất lượng hàng hoá ngày 27 tháng 12 năm 1990;
Căn cứ Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30 tháng 11 năm 1989;
Căn cứ Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ngày 28 tháng 1 năm 1989;
Theo đề nghị của Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước.

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1.- Mọi tổ chức và cá nhân hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải chịu trách nhiệm trước khách hàng và trước pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá của mình; phải đăng ký chất lượng và chịu sự thanh tra, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hoá của cơ quan quản lý Nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất lượng và của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Điều 2.- Nhà nước nghiêm cấm mọi tổ chức và cá nhân sản xuất, buôn bán hàng giả (kể cả hàng nhập khẩu). Tuỳ theo mức độ gây tác hại, các tổ chức và cá nhân sản xuất, buôn bán hàng giả có thể bị xử lý theo Nghị định này hoặc bị truy tố theo Điều 167 của Bộ luật hình sự.

Điều 3.- Hàng giả theo Nghị định này, là những sản phẩm, hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường; hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.

Điều 4.- Sản phẩm, hàng hoá có một trong những dấu hiệu dưới đây được coi là hàng giả:

1. Sản phẩm, hàng hoá (kể cả hàng nhập khẩu) có nhãn sản phẩm giả mạo hoặc nhãn sản phẩm của một cơ sở sản xuất khác mà không được chủ nhãn đồng ý;

2. Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệt hoặc tương tự có khả năng làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký với cơ quan bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Cục sáng chế), hoặc đã được bảo hộ theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia;

3. Sản phẩm, hàng hoá mang nhãn không đúng với nhãn sản phẩm đã đăng ký với cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng;

4. Sản phẩm, hàng hoá ghi dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam khi chưa được cấp giấy chứng nhận và dấu phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam;

5. Sản phẩm, hàng hoá đã đăng ký hoặc chưa đăng ký chất lượng với cơ quan Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng mà có mức chất lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép;

6. Sản phẩm, hàng hoá có giá trị sử dụng không đúng với nguồn gốc, bản chất, tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.

Điều 5.- Mọi tổ chức, cá nhân, trước hết là các nhà sản xuất và người tiêu dùng, có quyền phát hiện và tố cáo việc sản xuất, buôn bán hàng giả với cơ quan có thẩm quyền.

Điều 6.- Các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả là:

- Cơ quan quản lý thị trường các cấp.

- Cơ quan Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng.

- Cơ quan quản lý sở hữu công nghiệp.

- Cơ quan quản lý y tế.

- Cơ quan thanh tra Nhà nước.

- Cơ quan công an.

- Cơ quan hải quan.

Điều 7.- Khi một trong các cơ quan nêu ở trên nhận được tố cáo phải phối hợp với các cơ quan khác tiến hành kiểm tra, xử lý theo đúng chức năng nhiệm vụ của mình.

Điều 8.- Kể từ ngày nhận được tố cáo, trong thời gian không quá 30 ngày, cơ quan có thẩm quyền xử lý có trách nhiệm phải kiểm tra, xử lý kịp thời và trả lời cho tổ chức hay người tố cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 38 của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính.

Trong khi tiến hành kiểm tra, xử lý, nếu thấy việc sản xuất buôn bán hàng giả có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền xử lý phải chuyển hồ sơ đến cơ quan điều tra hình sự.

Điều 9.- Sản phẩm là hàng giả quy định tại điểm 5 và 6 của Điều 4 thì phải được cơ quan Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng hoặc phòng thử nghiệm được công nhận tiến hành thử nghiệm và kết luận. Sản phẩm, hàng hoá là hoá dược, nguyên liệu làm thuốc và thuốc chữa bệnh là hàng giả thì phải được cơ quan quản lý y tế tiến hành thử nghiệm và kết luận.

[...]