Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1981

Số hiệu 3-LCT/HĐNN7
Ngày ban hành 04/07/1981
Ngày có hiệu lực 13/07/1981
Loại văn bản Luật
Cơ quan ban hành Quốc hội
Người ký Nguyễn Hữu Thọ
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Thủ tục Tố tụng

QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 3-LCT/HĐNN7

Hà Nội, ngày 04 tháng 7 năm 1981

 

LUẬT

TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Căn cứ vào Điều 83 của Hiến pháp về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội;
Căn cứ vào Điều 127 và các Điều từ 138 đến 141 của Hiến pháp về nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân;
Luật này quy định về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên Nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình.

Điều 2

Trong phạm vi chức năng của mình, các Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.

Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật.

Điều 3

Các Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố bằng những công tác dưới đây:

1/ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các văn bản pháp quy và biện pháp của các Bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hành vi của các nhân viên Nhà nước và công dân;

2/ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và các cơ quan điều tra khác;

3/ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Toà án nhân dân;

4/ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật;

5/ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và cải tạo.

Điều 4

Trong phạm vi nhiệm vụ của mình, các Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm cùng các cơ quan Công an, Thanh tra, Tư pháp, Toà án, các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ chức xã hội tích cực đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các việc làm vi phạm pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân phối hợp với các cơ quan và tổ chức nói trên trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; thống kê, nghiên cứu các tội phạm và việc làm vi phạm pháp luật; đào tạo cán bộ pháp lý.

Điều 5

1/ Các Viện kiểm sát nhân dân tổ chức và hoạt động theo chế độ tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nào của Nhà nước ở địa phương.

2/ Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm và bãi miễn.

Các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Hội đồng Nhà nước cử và bãi miễn, theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

3/ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng Nhà nước.

[...]