Kế hoạch 9837/KH-UBND năm 2020 về phát triển kinh tế tập thể năm 2021 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Số hiệu 9837/KH-UBND
Ngày ban hành 17/08/2020
Ngày có hiệu lực 17/08/2020
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Đồng Nai
Người ký Nguyễn Quốc Hùng
Lĩnh vực Doanh nghiệp

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 9837/KH-UBND

Đồng Nai, ngày 17 tháng 8 năm 2020

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2021 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI

Căn cứ Luật Hợp tác xã ngày 20/11/2012;

Căn cứ Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã.

Căn cứ Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 -2020.

Căn cứ Kế hoạch số 9836/KH-UBND ngày 17/8/2020 của UBND tỉnh Đồng Nai về Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2021-2025.

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2020

A/ TÌNH HÌNH KINH TẾ TẬP THỂ 2020

I. Đánh giá dựa trên các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã

1. Về số lượng, doanh thu và thu nhập của Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác (HTX, LH HTX, THT)

1.1. Về tổ hợp tác, câu lạc bộ năng suất cao

Toàn tỉnh hiện có 1.161 CLB - THT, ước cuối năm 2020 đạt 1.197 CLB - THT (tăng 40 THT so với năm 2019), với tổng số thành viên là 33.362 trong đó THT trồng trọt là 752 THT chiếm 64.7%, THT chăn nuôi là 280 THT chiếm 24,1%, THT thủy sản là 30 THT chiếm 2,58%, THT dịch vụ là 99 THT chiếm 8,5%. Hiện nay các THT đang chuyển đổi hoạt động theo Nghị định số 77/2019/NĐ-CP ngày 10/10/2019 của Chính phủ thay thế Nghị định số 151/2007/NĐ-CP ngày 10/10/2007 của Chính phủ.

- Số thành viên THT tại thời điểm 31/12/2020 ước đạt là 34.713 thành viên (tăng 1.096 thành viên, tỷ lệ tăng 3,26% so với thời điểm 31/12/2019); số lao động làm việc trong khu vực THT tại thời điểm 31/12/2020 ước khoảng 40.267 (tăng 935 lao động, tỷ lệ tăng 2,37% so với thời điểm 31/12/2019).

- Doanh thu bình quân của một THT ước đạt là 1.040 triệu đồng/năm, lãi bình quân một THT đạt 256 triệu đồng/năm.

Nhìn chung, xuất phát từ nhu cầu phát triển của kinh tế hộ và điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương, THT được thành lập với hình thức tổ chức, quy mô và nội dung hoạt động khá đa dạng. Hoạt động của THT chủ yếu hướng vào mục đích giúp đỡ, tương trợ nhau trong sản xuất và đời sống thành viên; THT đã khắc phục được một số mặt yếu kém của kinh tế hộ đơn lẻ, như thiếu vốn, công cụ, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất; giúp kinh tế tổ viên tăng sức cạnh tranh thị trường và nâng cao năng lực hoạt động kinh tế; giúp các hộ tổ viên sử dụng có hiệu quả hơn về đất đai, lao động, vật tư và tiền vốn; tiếp nhận những thông tin, tiến bộ khoa học - kỹ thuật góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh của kinh tế hộ; số THT được thành lập mới theo hướng dựa trên nhu cầu thực tế của thành viên, phát huy tinh thần giúp đỡ nhau trong sản xuất; các THT hoạt động trên nhiều lĩnh vực ngành nghề như nông nghiệp, dịch vụ, thủ công mỹ nghệ, dệt thổ cẩm, đúc gang, hàng mộc xuất khẩu...

Tuy nhiên, số lượng các THT hoạt động hiệu quả chưa cao (chiếm khoảng 50%); số THT phát triển thành hợp tác xã chưa nhiều; mặc dù việc tuyên truyền Nghị định số 151/2007/NĐ-CP và Nghị định số 77/2019/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động THT được thực hiện đến tận xã, phường, khu phố, ấp nhưng đến nay một số THT vẫn chưa thực hiện theo quy định vì hoạt động thiếu ổn định, theo mùa vụ, các THT hoạt động còn hình thức; chưa cung cấp các dịch vụ thiết thực cho tổ viên; một số THT chưa thực hiện việc đăng ký với chính quyền địa phương theo quy định nên gặp nhiều khó khăn trong giao dịch kinh tế và giải quyết vấn đề tranh chấp trong nội bộ tổ hợp tác; giữa tổ hợp tác với các thành phần kinh tế khác... Khó khăn nhất vẫn là trình độ và kinh nghiệm quản lý, điều hành của ban điều hành THT còn yếu, do đó hoạt động của tổ hợp tác chưa thực sự là nền tảng để phát triển thành hợp tác xã thể hiện qua số lượng hợp tác xã được thành lập mới từ các THT có hoạt động hiệu quả còn ít và khiêm tốn. Việc theo dõi tình hình và hỗ trợ THT gặp nhiều khó khăn do cán bộ kinh tế tập thể ở các xã, phường, thị trấn thường là bán chuyên trách, hoặc luân chuyển, thay đổi và kiêm nhiệm nhiều việc, vì vậy việc vận dụng và hỗ trợ các THT tiếp cận các chính sách hỗ trợ còn hạn chế.

1.2. Về hợp tác xã (HTX), Liên hiệp HTX, Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND):

- Trong 06 tháng đầu năm 2020 đã thành lập mới 17 HTX (14 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 2 HTX TMDV, 01 VSMT) đạt 54% kế hoạch năm. Tổng vốn điều lệ đăng ký thêm: 27.440 triệu đồng và 136 thành viên tham gia. Bình quân vốn điều lệ một HTX đăng ký mới là 1.524 triệu đồng và 8 thành viên một HTX; đã tiến hành giải thể 01 HTX ngưng hoạt động (HTX TMDV tổng hợp Long Đức thuộc huyện Long Thành). Lũy kế đến ngày 30/6/2020 toàn tỉnh có 421 HTX; Quỹ TDND và 01 liên hiệp HTX (ước đến 31/12/2020 đạt 448 HTX). Trong đó: Có 394 HTX, Quỹ TDND đang hoạt động với tổng vốn điều lệ là 1.226,852 tỷ đồng và 79.909 thành viên.

- Số thành viên HTX dự kiến đến thời điểm 31/12/2020 là 112.296 thành viên (tăng 13.742 thành viên, tỷ lệ tăng 13,9% so với thời điểm 31/12/2019) trong đó số thành viên là cá nhân 106.681, hộ gia đình 5.615; số lượng thành viên mới tham gia vào HTX là 368; số lao động làm việc trong khu vực HTX tại thời điểm 31/12/2020 là 10.596 lao động (tăng 658 lao động, tỷ lệ tăng 6,6% so với thời điểm 31/12/2019).

- Đóng góp của khu vực KTTT, HTX vào GDP ước tại thời điểm 31/12/2020 đạt 0,52%; đóng góp của HTX tới kinh tế hộ thành viên: ước giảm chi phí đầu vào 20%.

- Tổng số vốn điều lệ tại thời điểm 31/12/2020 ước đạt 1.657,533 tỷ đồng, tăng 9% so với thời điểm 31/12/2019.

- Doanh thu bình quân của một HTX là 13.300 triệu đồng/năm, tăng 9% so với thời điểm 31/12/2019; lãi bình quân một HTX đạt 1.018 triệu đồng/năm, giảm 0,1% so với thời điểm 31/12/2019; thu nhập bình quân của thành viên và lao động HTX năm 2020 ước đạt khoảng 78,08 triệu đồng/năm, tăng 3% so với thời điểm 31/12/2019.

- Số HTX hoạt động hiệu quả theo Luật Hợp tác xã 2012: Phân loại hợp tác xã hoạt động khá, giỏi đạt 62%; hợp tác xã hoạt động trung bình, đạt 28%; hợp tác xã hoạt động yếu cần củng cố chiếm 10%.

Nhìn chung các hợp tác xã mới được thành lập, hoạt động đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực; nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác được củng cố, đổi mới về tổ chức và hoạt động, trong đó xuất hiện một số điển hình tiên tiến, hợp tác xã khá giỏi chiếm tỷ trọng ngày càng cao; thành viên tham gia hợp tác xã có chiều hướng tăng lên; vốn điều lệ của hợp tác xã ngày càng lớn; lĩnh vực hoạt động ngày càng rộng, tạo việc làm và thu nhập thường xuyên cho người lao động. Liên kết giữa các hợp tác xã với nhau và với các tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Các tổ chức kinh tế tập thể đã từng bước khẳng định là nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm an ninh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, hoạt động kinh tế tập thể vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo dài. Nhiều hạn chế, yếu kém của kinh tế tập thể mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX và Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 02/01/2008 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã chỉ ra, đến nay vẫn chưa được khắc phục. Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tập thể chậm, tỷ lệ đóng góp vào GRDP của tỉnh thấp. Phần lớn các hợp tác xã hoạt động với quy mô nhỏ, vốn ít, cơ sở vật chất nghèo nàn, không có tài sản thế chấp khi vay các tổ chức tín dụng, công nghệ lạc hậu; nội dung hoạt động còn đơn điệu, còn có những biểu hiện hình thức, xa rời bản chất các nguyên tắc và giá trị hợp tác xã; sự liên kết, hợp tác của các hợp tác xã chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả thấp; đội ngũ cán bộ quản lý phần lớn chưa được đào tạo... từ đó khó thu hút và huy động vốn góp của thành viên; chưa thực sự trở thành “bà đỡ” cho thành viên và thành viên cũng chưa gắn bó với hợp tác xã; còn nhiều tổ hợp tác hoạt động mang tính tự phát, hình thức, chưa đúng với quy định của Nghị định 77/2019/NĐ-CP; do đó hoạt động của tổ hợp tác chưa thực sự là nền tảng để phát triển thành HTX; kinh tế tập thể chưa thể hiện và đảm nhiệm vai trò cùng với kinh tế Nhà nước làm nền tảng vững chắc của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên địa bàn tỉnh.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, yếu kém trên là do nhận thức về phát triển kinh tế tập thể của một số cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa đầy đủ, chưa thống nhất; đánh giá về kinh tế tập thể chưa toàn diện, chưa thấy hết vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tập thể trong phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng. Năng lực của các tổ chức kinh tế tập thể còn yếu. Công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế, bộ máy phân tán, hoạt động kém hiệu quả; khung pháp luật và chính sách phát triển kinh tế tập thể còn nhiều bất cập; các cấp chính quyền chưa làm tốt việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ, chưa kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho hoạt động của kinh tế tập thể, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để đẩy mạnh phát triển của khu vực kinh tế tập thể.

2. Về trình độ cán bộ quản lý HTX

[...]
20