Kế hoạch 63/KH-UBND năm 2020 về phát triển kinh tế tập thể tỉnh Bình Định giai đoạn 2021-2025

Số hiệu 63/KH-UBND
Ngày ban hành 25/08/2020
Ngày có hiệu lực 25/08/2020
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bình Định
Người ký Trần Châu
Lĩnh vực Doanh nghiệp

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH ĐỊNH
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 63/KH-UBND

Bình Định, ngày 25 tháng 08 năm 2020

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TỈNH BÌNH ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2021-2025

Thực hiện văn bản số 4476/BKHĐT-HTX ngày 14/7/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn năm 2021 - 2025, trên cơ sở tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn năm 2016 - 2020, UBND tỉnh Bình Định xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể tỉnh Bình Định giai đoạn năm 2021 - 2025 với các nội dung sau:

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ (KTTT) GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

1. Tình hình chung

Trong giai đoạn 2016-2020, tình hình kinh tế trong nước và thế giới đã có nhiều biến động ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX. Bên cạnh những thuận lợi từ sự quan tâm của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đối với thành phần kinh tế tập thể, thì đồng thời hoạt động trong lĩnh vực này cũng bị tác động bởi những khó khăn chung của kinh tế trong nước, giá cả biến động, thiên tai, thời tiết diễn biến bất thường, dịch bệnh, cây trồng vật nuôi thường xuyên xảy ra, đặc biệt là dịch covid 19... gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển của kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh.

Nhằm phát triển quy mô sản xuất nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường, các hình thức liên kết trong sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ hàng hóa đã phát triển với nhiều hình thức đa dạng phù hợp với điều kiện sản xuất của từng vùng và địa phương, tỉnh đã phê duyệt các Đề án “Đổi mới, phát triển các tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp tỉnh Bình Định đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”; và Đề án “Phát triển 15.000 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Được sự quan tâm chỉ đạo chặt chẽ và thường xuyên của Tỉnh ủy, với sự nỗ lực phấn đấu của tỉnh, trong giai đoạn 2016-2020 phát triển kinh tế tập thể đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đánh giá tình hình HTX giai đoạn 2016-2020 theo một số chỉ tiêu cụ thể sau:

1.1. Về tổ hợp tác

- Số lượng tổ hợp tác (THT) tại thời điểm 31/12/2020 ước khoảng 760 tổ (trong đó: 730 tổ đoàn kết sản xuất trên biển, 30 THT nông nghiệp), số lượng THT thành lập mới trong năm 2020 là 5 tổ, số THT có đăng ký chứng thực hợp đồng hợp tác là 760 tổ; tăng 36 tổ so với thời điểm 31/12/2016.

- Số thành viên THT tại thời điểm 31/12/2020 ước khoảng 3.088 thành viên, tăng 146 thành viên so với thời điểm 31/12/2016.

- Nhìn chung, các tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua hoạt động tương đối hiệu quả. Đối với tổ hợp tác trong các lĩnh vực thủy lợi, trồng trọt, dịch vụ nông - lâm nghiệp… chủ yếu tận dụng các nguồn lực như đất đai, nguyên liệu, lao động để hỗ trợ trong sản xuất nông nghiệp. Các tổ ngư dân đoàn kết sản xuất trên biển đã nâng cao được ý thức, trách nhiệm của ngư dân trong hoạt động khai thác hải sản xa bờ, nhất là tinh thần tương thân, tương trợ, giúp đỡ nhau trong khó khăn, hoạn nạn; hỗ trợ nhau phòng, tránh thiên tai, tham gia cứu hộ, cứu nạn; bảo vệ an ninh, trật tự và chủ quyền biển đảo. Trong giai đoạn 2016-2020, có 5 THT phát triển thành hợp tác xã nông nghiệp.

- Những hạn chế, khó khăn và những vấn đề mới phát sinh của THT hiện nay: do số lượng THT lớn, hoạt động phân tán, trình độ học vấn các Tổ trưởng THT có phần hạn chế sổ sách thường viết tay, hàng năm không có báo cáo tình hình hoạt động cho cơ quan nhà nước nên việc theo dõi và thống kê tập trung ở cấp xã rất khó thực hiện.

1.2. Về hợp tác xã

- Đến 31/12/2020 có khoảng 285 HTX, tăng 77 HTX so với năm 2016. Trong đó có 204 HTX nông nghiệp, 14 HTX vận tải, 20 HTX TTCN & thương mại và 27 Quỹ TDND. Trong đó có 73 HTX thành lập mới, số lượng HTX đã chuyển đổi là 195 HTX; số HTX giải thể là 6 HTX.

- Các HTX trên địa bàn tỉnh đã chuyển đổi theo Luật HTX năm 2012 hoàn thành vào năm 2015 theo đúng kế hoạch.

- Tổng số thành viên dự kiến đến 31/12/2020 là 287.065 thành viên giảm 38.063 thành viên, trong đó chủ yếu thành viên và hộ gia đình. Số lượng thành viên mới tham gia vào HTX giai đoạn 2016-2020 là 62.248 thành viên; số lao động làm việc tại HTX tại thời điểm báo cáo là 4650 người tăng 25 người so với năm 2016.

- Đóng góp của HTX tới kinh tế hộ thành viên: HTX tổ chức các dịch vụ phục vụ sản xuất, cung ứng vật tư nông nghiệp tập trung với hình thức bán đầu vụ trả chậm cuối vụ không thu lãi hoặc giảm giá trực tiếp trên sản phẩm bán ra giúp giảm chi phí đầu vào cho thành viên; ngoài ra một số HTX hỗ trợ cho thành viên vay vốn để phát triển sản xuất thông qua dịch vụ tín dụng nội bộ với lãi suất thấp hơn hoặc bằng quỹ tín dụng nhân dân, thủ tục đơn giản; thực hiện liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ nông sản cho thành viên với giá cao hơn so với thương lái bên ngoài; mở thêm các dịch vụ ngành nghề mới như: sản xuất tinh dầu dừa, xăng dầu, quản lý nghĩa trang, chợ, thu gom rác thải, nước sinh hoạt đòi hỏi sử dụng nhiều lao động góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho thành viên.

- Tổng số vốn hoạt 3.099,8 tỷ đồng tăng 743 tỷ đồng. Trong đó tổng số vốn đăng ký mới là 99 tỷ đồng. Tổng vốn điều lệ 171,3 tỷ đồng tăng 25 tỷ đồng so với 2016.

- Doanh thu bình quân của HTX ước đạt 4,5 tỷ đồng, trong đó doanh thu đối với thành viên đạt 2,8 tỷ đồng; doanh thu ngoài thành viên đạt 1,7 tỷ đồng; Lãi bình quân của 01 HTX là khoảng 160 triệu đồng; thu nhập bình quân của người lao động khoảng 3,1 triệu đồng/tháng tăng 500.000 đồng so với năm 2016.

- Tổng số nợ đọng của HTX tính dự kiến đến 31/12/2020 là 98,6 tỷ đồng chủ yếu là từ năm 1997 đến nay.

- Số HTX hoạt động hiệu quả theo Luật HTX năm 2012 theo tiêu chí đánh giá của Bộ kế hoạch và đầu tư, cụ thể như sau:

+ HTX khá giỏi: 82 HTX chiếm 31%

+ HTX trung bình: 173 HTX chiếm 68%

+ HTX yếu kém: 20 HTX chiếm 7%

- Số lượng cán bộ quản lý HTX là 1.662 người, trong đó cán bộ quản lý đạt trình độ sơ cấp, trung cấp là 878 người; số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ cao đẳng, đạt học trở lên là 446 người; số cán bộ được hỗ trợ bảo hiểm xã hội là 1.125 người; tỷ lệ cán bộ đã qua đào tạo nghề 1.455 người.

[...]