Kế hoạch 8725/KH-UBND năm 2021 về phát triển mới 5.000 doanh nghiệp và 100 doanh nghiệp dẫn đầu trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2021 -2025

Số hiệu 8725/KH-UBND
Ngày ban hành 30/12/2021
Ngày có hiệu lực 30/12/2021
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Bến Tre
Người ký Nguyễn Trúc Sơn
Lĩnh vực Doanh nghiệp

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 8725/KH-UBND

Bến Tre, ngày 30 tháng 12 năm 2021

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN MỚI 5.000 DOANH NGHIỆP VÀ XÂY DỰNG 100 DOANH NGHIỆP DẪN ĐẦU TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN TRE GIAI ĐOẠN 2021-2025

Căn cứ Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ XI nhiệm kỳ 2020-2025;

Thực hiện Nghị quyết số 21/2020/NQ-HĐND ngày 09 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre 05 năm 2021 -2025;

Để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021-2025; phát triển doanh nghiệp cả về số lượng và chất lượng, hiệu quả, bền vững, tạo nền tảng, động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà, Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng Kế hoạch phát triển mới 5.000 doanh nghiệp và 100 doanh nghiệp dẫn đầu trên địa bàn tỉnh, nội dung như sau:

Phần I

THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP, HỘ KINH DOANH TỈNH BẾN TRE

I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘ KINH DOANH

Hộ kinh doanh là nền tảng vững chắc để phát triển doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp, đặc biệt là ở những ngành, lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng, thế mạnh của tỉnh (ngành dừa, thủy sản); là lực lượng đóng vai trò to lớn, góp phần xây dựng hiệu quả nền kinh tế địa phương, nhất là tạo việc làm và giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là lực lượng tiềm năng, đã trải qua thời gian kinh doanh bài bản, là lực lượng nguồn để hình thành nên những DN dẫn đầu của tỉnh.

Giai đoạn 2016-2021, đã có hơn 420 DN được thành lập từ hộ kinh doanh trong tổng số 5.337 DN của tỉnh; đã tạo việc làm cho hơn 114.000 lao động (số lao động trung bình một hộ dao động khoảng 02 người/hộ kinh doanh).

Toàn tỉnh hiện có 53.452 hộ kinh doanh, với tổng số vốn đăng ký gần 7.320 tỷ đồng, trong đó có khoảng 24.812 hộ kinh doanh đang hoạt động1; với hơn 75% hộ kinh doanh trên địa bàn tỉnh tập trung phát triển ở lĩnh vực thương mại-dịch vụ; Trong đó thành phố Bến Tre, huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Châu Thành là các địa phương có số lượng hộ kinh doanh cao.

II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

Bến Tre hiện có 5.337 DN, vốn đăng ký đạt 51.886 tỷ đồng và 2.747 đơn vị trực thuộc (ĐVTT), trong đó có 4.333 DN và 2.487 ĐVTT đang hoạt động, tổng vốn đăng ký 45.216,547 tỷ đồng, với 113.192 lao động. Số lượng DN nhỏ và vừa chiếm đến 97,44% (đa số là DN siêu nhỏ, chiếm 60,47%). Có 2.003 DN hoạt động trong lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ôtô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, chiếm 37,5 %; 1.002 DN ở lĩnh vực hoạt động dịch vụ khác, chiếm 18,8%; 695 DN trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, chiếm 13%.

Riêng năm 2020, toàn tỉnh có 502 DN2 thành lập mới (73 DN chuyển đổi từ hộ kinh doanh, 98 DN khởi nghiệp, 366 ĐVTT thành lập). Bình quân mỗi quý phát triển 125 DN. Trong đó, có 199 DN thuộc nhóm ngành nghề buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy và xe có động cơ khác (chiếm 39,64%); có 66 DN thuộc nhóm ngành nghề xây dựng (chiếm 13,15%); có 51 DN thuộc nhóm ngành nghề công nghiệp, chế biến, chế tạo (chiếm 10,16%). Trong 9 tháng đầu năm 2021, đã cấp giấy chứng nhận đăng ký cho 293 DN và 305 ĐVTT, với vốn đăng ký ban đầu 4.624,697 đồng, đạt 45,78% về số lượng DN so với kế hoạch năm 2021 (640) và bằng 1,54 lần về vốn đăng ký so cùng kỳ năm 2020.

Giai đoạn 2020-2021, tuy gặp nhiều khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19, nhưng số lượng DN giải thể và tạm ngưng kinh doanh không có sự thay đổi lớn so với giai đoạn 2016-2020 (năm 2020 có 167 DN và 303 ĐVTT giải thể; 92 DN và 36 ĐVTT tạm ngừng kinh doanh; 09 tháng đầu năm 2021 có 68 DN và 84 ĐVTT giải thể; 131 DN và 59 ĐVTT tạm ngừng kinh doanh). Từ đầu năm đến nay, Bến Tre chịu tác động trực tiếp của dịch bệnh Covid -19, tuy nhiên số lượng DN giải thể tương đương năm 2020; số DN tạm dừng hoạt động tăng cao, chứng tỏ những DN này tuy gặp khó khăn, nhưng vẫn có tiềm năng và mong muốn trở lại thị trường. Trong thời gian tới, nếu kiểm soát tốt dịch bệnh và có chính sách đột phá, DN ngoài nước vào Việt Nam sẽ là cơ hội lớn để phát triển đội ngũ DN tỉnh Bến Tre.

Qua rà soát thông tin về doanh thu, nộp ngân sách nhà nước, DN sử dụng nhiều lao động trên địa bàn tỉnh năm 2020, Bến Tre hiện có các DN là nhân tố ban đầu làm nền tảng phát triển thành DN dẫn đầu, cụ thể như sau: i) Về doanh thu có 60 DN, đạt doanh thu trên 200 tỷ đồng; 143 DN có doanh thu từ 50-200 tỷ đồng; ii) Về lao động có tham gia bảo hiểm xã hội: 11 DN sử dụng trên 1.000 lao động; 34 DN sử dụng từ 200-1.000 lao động; iii) Về nộp ngân sách nhà nước, có 38 DN nộp trên 05 tỷ đồng.

III. KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC

Về phát triển hộ kinh doanh : các hộ kinh doanh của tỉnh tuy có phát triển mạnh nhưng vẫn còn những tồn tại và yếu kém nhất định: quy mô nhỏ, thiếu vốn, máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu; nguồn nhân lực còn hạn chế về chất lượng, nhất là trình độ quản lý còn yếu kém; thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh; thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh còn rất yếu. Đối với các hộ kinh doanh đủ điều kiện chuyển lên DN, đa số các hộ vẫn còn rất lo lắng, còn “xa lạ” với với hệ thống sổ sách, kế toán và báo cáo thuế khi hoạt động theo mô hình DN, còn “mơ hồ” về các quy định liên quan đến bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh thực phẩm, điều kiện kinh doanh,…

Về phát triển DN: số lượng DN tỉnh Bến Tre phát triển hàng năm tăng nhưng mức đóng góp của DN còn khá thấp so với các tỉnh, thành trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; quy mô DN tại Bến Tre là rất nhỏ, cơ cấu DN lớn chiếm tỷ trọng nhỏ và không có sự thay đổi trong thời gian dài.

Về thương hiệu: Bến Tre vẫn chưa có nhiều DN tư nhân lớn có thương hiệu quốc gia và quốc tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường cả nước và toàn cầu. Sau hơn 10 năm gia nhập WTO và nhiều sân chơi thương mại quốc tế lớn, các DN trong tỉnh vẫn loay hoay với thị trường nội địa, kim ngạch xuất khẩu có lớn nhưng chưa gắn với những thương hiệu mạnh để định vị sản phẩm của Việt Nam trên thị trường tiêu thụ toàn cầu.

Về ứng dụng khoa học và công nghệ: việc ứng dụng KHCN, đặc biệt là công nghệ số vào sản xuất kinh doanh của DN trong tỉnh còn thấp; các DN sản xuất chưa mạnh dạn áp dụng công nghệ mới, nhằm cải tiến năng suất nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Về năng lực cạnh tranh: đa số DN gặp khó khăn về năng lực quản trị, tìm kiếm khách hàng, nguồn vốn do năng lực tài chính hạn chế cùng với khả năng tiếp cận các nguồn vốn không dễ, đối tác kinh doanh, nhân sự thích hợp, cơ s ở hạ tầng, mặt bằng kinh doanh, biến động về chính sách và pháp luật.

Về công tác tuyên truyền vẫn còn nhiều bất cập, nhiều điểm nghẽn khiến nhiều hộ kinh doanh đủ điều kiện trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn chưa tiếp cận được các thông tin và chính sách để hỗ trợ phát triển lên DN.

Về công tác cải cách hành chính mặc dù được quan tâm thực hiện có hiệu quả, rút ngắn đáng kể thời gian thực hiện các quy định, nhưng vẫn còn tình trạng chậm trễ, đặc biệt trong công tác phối hợp liên ngành.

Về chính sách cho phát triển các loại hình DN còn dàn trải và theo chiều rộng; một phần chưa thể thực hiện được do thiếu kinh phí. Chưa có những chính sách đột phá cho sự phát triển DN, đặc biệt là hỗ trợ DN vươn lên thành DN dẫn đầu.

Về lao động: nguồn lao động tại địa phương chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là lao động có trình độ cao. Nguồn lao động phổ thông cũng khó tuyển dụng và có nhiều biến động.

Về thiên tai, dịch bệnh: biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn gây ra những khó khăn, ảnh hưởng cho các DN, hộ kinh doanh và những rủi ro cho các nhà đầu tư trong phát triển lâu dài tại tỉnh. Dịch bệnh Covid -19 đang diễn biến phức tạp, làm suy giảm kinh tế thế giới ở tất cả các mặt từ sản xuất, đầu tư, thương mại, dịch vụ đến tiêu dùng và làm xáo trộn chuỗi cung ứng. Điều này c ó thể làm suy giảm đầu tư, sản xuất và xuất khẩu của các DN. Tình hình dịch bệnh kéo dài và những khó khăn về kinh tế trong nước, thất nghiệp gia tăng làm giảm tiêu dùng nội địa đang ảnh hưởng lớn đến đầu ra của các DN.

Phần II

[...]