Kế hoạch 122/KH-UBND năm 2017 về thực hiện Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030” tỉnh Phú Yên

Số hiệu 122/KH-UBND
Ngày ban hành 19/07/2017
Ngày có hiệu lực 19/07/2017
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Tỉnh Phú Yên
Người ký Phan Đình Phùng
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ YÊN
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 122/KH-UBND

Phú Yên, ngày 19 tháng 7 năm 2017

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN ĐỀ ÁN “ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN TRỢ GIÚP XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2017-2025 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030” TỈNH PHÚ YÊN

Thực hiện Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày 14/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030”; Công văn số 2144/LĐTBXH-BTXH ngày 01/6/2017 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội hướng dẫn triển khai thực hiện Quyết định số 488/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;

Để tổ chức triển khai thực hiện, UBND tỉnh xây dựng Kế hoạch thực hiện Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030” tỉnh Phú Yên, với những nội dung chủ yếu như sau:

Phần thứ nhất

THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ THỰC HIỆN TRỢ GIÚP XÃ HỘI CỦA TỈNH PHÚ YÊN

I. Thực trạng tình hình đối tượng bảo trợ xã hội, hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh

Phú Yên là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, diện tích tự nhiên trên 5.000km2, với dân số gần 900.000 người, trong đó có trên 231.000 trẻ em (chiếm trên 20% dân số), gần 97.000 người cao tuổi (chiếm trên 10,7% dân số), trên 20.100 người khuyết tật (chiếm gần 2,24% dân số).

Theo số liệu thống kê, hiện nay trên toàn tỉnh có hơn 39.000 đối tượng đang hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội, 25.765 hộ nghèo, 22.050 hộ cận nghèo và hơn 20.000 đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trong đó 6.820 trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, 2.931 người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa, 5.214 người khuyết tật thuộc dạng thần kinh, trí tuệ và 5.373 người khuyết tật thuộc diện hộ nghèo).

Đối tượng bảo trợ xã hội và hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hiện sinh sống đều khắp ở các địa phương trên địa bàn tỉnh, tỷ lệ các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, các xã nghèo, vùng khó khăn thường xảy ra thiên tai lũ lụt cao hơn so với các xã ở vùng đồng bằng và thành thị.

II. Kết quả trợ giúp xã hội năm 2016

1. Công tác truyền thông

Để góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư trong công tác bảo vệ, chăm sóc các đối tượng yếu thế trong xã hội những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; trong thời gian qua công tác truyền thông rất được chú trọng và thực hiện thường xuyên. Thông qua đó các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác giảm nghèo, chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,... được tuyên truyền rộng rãi thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như Báo Phú Yên, Đài Phát thanh -Truyền hình Phú Yên (01 tuần/tin, bài) và hệ thống Đài truyền thanh ở cơ sở; biên soạn, in ấn và cấp phát hàng ngàn tờ rơi tuyên truyền về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

2. Kết quả thực hiện

Mặc dù, điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, nhưng với sự nlực phấn đấu của các cấp, các ngành từ tỉnh đến địa phương cơ sở, nên các chính sách, dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo đã được quan tâm tổ chức triển khai kịp thời, tác động trực tiếp đến nhiều lĩnh vực của đời sống người nghèo, giúp hộ nghèo phát triển kinh tế, ổn định đời sống. Kết quả thực hiện các chính sách về giảm nghèo, cụ thể như sau:

Trong năm 2016 vận động từ nhiều nguồn khác nhau đã hỗ trợ xây dựng 728 nhà ở cho hộ nghèo, hộ chính sách với tổng kinh phí hơn 28.000 triệu đồng; cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) cho 249.289 lượt người thuộc hộ nghèo, người dân đang sinh sống tại các xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và 28.564 lượt người thuộc hộ cận nghèo; hỗ trợ miễn giảm học phí ước thực hiện đến cuối năm 2016 cho 35.261 lượt học sinh với số tiền 5.512 triệu đồng; hỗ trợ chi phí học tập 29.460 lượt học sinh, với số tiền 13.044 triệu đồng; hỗ trợ tiền điện 30.803 hộ, với tổng kinh phí 17.003 triệu đồng; hỗ trợ vốn tín dụng cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất 8.268 lượt hộ nghèo và cận nghèo, doanh số cho vay 244.035 triệu đồng; cho vay 3.342 hộ mới thoát nghèo, với doanh số cho vay 119.229 triệu đồng; xét cho 3.277 lượt học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay 17.444 triệu đồng; cho vay xóa nhà tạm 50 nhà, với số tiền 990 triệu đồng…

Thực hiện Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; năm 2016, tỉnh đã giải quyết trợ cấp xã hội từ nguồn ngân sách Nhà nước cho khoảng 39.206 đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, với tổng kinh phí gần 200 tỷ đồng/năm; giải quyết cứu đói cho hơn 44.700 lượt hộ, 95.214 lượt người với hơn 1.527 tấn gạo, đồng thời nhân các dịp lễ, tết, nhất là Tết Nguyên đán, các tổ chức, cá nhân đã trao tặng cho hơn 65.700 suất quà cho người nghèo với tổng kinh phí hơn 38.300 triệu đồng, đã giải quyết trợ cấp đột xuất cho gia đình có người chết, người bị thương và nhà sập do thiên tai lũ lụt gây ra với tổng kinh phí hơn 1,1 tỷ đồng; đồng thời các nhà hảo tâm đã tặng hơn 18.076 suất quà cho gia đình bị thiệt hại do lũ lụt gây ra với tổng kinh phí hơn 10 tỷ đồng. Đã nâng cấp Trung tâm công tác xã hội trẻ em thành Trung tâm công tác xã hội, nâng tổng số Trung tâm trợ giúp xã hội trên toàn tỉnh là 05 Trung tâm (Trong đó: 03 Trung tâm công lập và 02 Trung tâm ngoài công lập).

Công tác xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên công tác xã hội được chú trọng thực hiện, số lượng nhân viên Công tác xã hội tăng từ 623 người năm 2010 lên 796 người năm 2016, đến nay toàn tỉnh đã có 112/112 xã phường thị trấn có cộng tác viên công tác xã hội.

3. Đánh giá chung

Được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Tỉnh ủy, sự giúp đỡ của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành và sự hỗ trợ thường xuyên của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dành cho các đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã mang lại nhiều kết quả thiết thực. Hầu hết các hộ nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội đã được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản như: vay vốn tín dụng, chăm sóc sức khỏe, miễn giảm học phí, nhà ở, đào tạo nghề, trợ cấp xã hội thường xuyên, trợ cấp đột xuất,… một bộ phận hộ nghèo có điều kiện tổ chức sản xuất vươn lên thoát nghèo; các chính sách, dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, chính sách bảo trợ xã hội đã được các cấp, các ngành quan tâm tổ chức triển khai tốt, tác động trực tiếp đến đời sống người nghèo, giúp hộ nghèo phát triển kinh tế, ổn định đời sống.

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế:

- Ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, trình độ dân trí còn thấp dẫn đến việc bảo vệ, chăm sóc các đối tượng yếu thế, các hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn hạn chế; các giá trị đạo đức, lối sống thay đổi cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi không nguồn nuôi dưỡng, người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa.

- Hiện nay toàn tỉnh có 5.214 người khuyết tật thuộc dạng thần kinh, trí tuệ, chưa có trung tâm nuôi dưỡng và phục hồi chức năng cho người tâm thần.

- Đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, nhất là cán bộ làm công tác thương binh-xã hội và các hội, đoàn thể không ổn định, thường xuyên thay đổi đã ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành trong công tác thực hiện chính sách an sinh xã hội ở địa phương cơ sở.

- Các hình thức chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tại cộng đồng chưa phát triển mạnh; số trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật được chăm sóc thay thế tại gia đình, cộng đồng còn ít; mức trợ cấp, trợ giúp còn thấp, trong khi đó giá cả thị trường biến động liên tục tăng cho nên đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống của các đối tượng.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức về chính sách an sinh xã hội, công tác giảm nghèo ở một số địa phương còn hạn chế, chưa thường xuyên; một bộ phận hộ nghèo và cận nghèo còn mang tính ỷ lại, không tự lực vươn lên để thoát nghèo.

Phần thứ hai

MỤC TIÊU, NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ ÁN

[...]