Hướng dẫn 28/HD-VKSTC năm 2022 về nội dung nhằm phát hiện vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính để ban hành kháng nghị phúc thẩm do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 28/HD-VKSTC
Ngày ban hành 25/05/2022
Ngày có hiệu lực 25/05/2022
Loại văn bản Hướng dẫn
Cơ quan ban hành Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký Lê Tiến
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 28/HD-VKSTC

Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2022

 

HƯỚNG DẪN

MỘT SỐ NỘI DUNG NHẰM PHÁT HIỆN VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ĐỂ BAN HÀNH KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM

Trong những năm qua, công tác kháng nghị phúc thẩm cùng cấp, cấp trên trực tiếp của nhiều đơn vị, địa phương đã thực hiện tốt theo chỉ tiêu của ngành Kiểm sát và Quốc hội đề ra. Tuy nhiên, còn một số vụ án, Viện kiểm sát chưa kịp thời phát hiện được vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm, có kháng nghị chất lượng chưa cao. Để kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính của Tòa án, nâng cao số lượng, chất lượng kháng nghị phúc thẩm; thực hiện Kế hoạch số 01/KH-VKSTC ngày 30/12/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác trọng tâm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2022, thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 10) ban hành “Hướng dẫn một số nội dung nhằm phát hiện vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính để ban hành kháng nghị phúc thẩm” với nội dung như sau:

1. Phát hiện vi phạm pháp luật về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính của Tòa án

1.1. Vi phạm trong việc xác định đối tượng khởi kiện

Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước theo quy định từ khoản 1 đến khoản 5 Điều 3 và tại Điều 30 Luật Tố tụng hành chính 2015. Quá trình kiểm sát, Kiểm sát viên lưu ý để xác định đúng đối tượng khởi kiện, ngoài Luật Tố tụng hành chính thì còn căn cứ vào các luật chuyên ngành có liên quan như: Bộ luật Lao động, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức; Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước, Luật Cạnh tranh, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân...và có thể căn cứ vào án lệ và tham khảo các hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao như: Án lệ số 10/2016/AL theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao...

Các quyết định hành chính, hành vi hành chính có thể đã được giải quyết khiếu nại theo Luật khiếu nại hoặc người khiếu nại không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại và không tiếp tục khiếu nại nữa hoặc trường hợp đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại nhưng khiếu nại đó không được cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện ra Tòa án. Trong một số trường hợp Tòa án xác định không đúng, không đầy đủ đối tượng khởi kiện để giải quyết.

Ví dụ: Vụ án hành chính giữa người khởi kiện là bà Phạm Thị T với người bị kiện là Bảo hiểm xã hội tỉnh H. Nội dung thể hiện ngày 29/5/1997, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh H ban hành Quyết định số 119/BHXH-CĐCS có nội dung thu hồi sổ hưu của bà T, buộc bà T hoàn trả toàn bộ số tiền đã lĩnh từ khi nghỉ hưu.

Ngày 15/8/2012, bà T có đơn đề nghị Bảo hiểm xã hội tỉnh H xem xét cho bà T được hưởng lương hưu. Ngày 04/10/2012, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh H ban hành Văn bản số 600/BHXH-KT có nội dung không chấp nhận khiếu nại của bà T về việc hưởng chế độ hưu trí, nhưng ngày 11/4/2018 bà T mới biết có Văn bản số 600/BHXH-KT nên ngày 10/7/2018, bà T khiếu nại Văn bản số 600/BHXH-KT nhưng không được Bảo hiểm xã hội tỉnh H xem xét, giải quyết. Ngày 16/01/2019, bà T khởi kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh H yêu cầu: Hủy Quyết định số 119/BHXH ngày 29/5/1997 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh H; hủy Văn bản số 600/BHXH-KT ngày 04/10/2012 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh H. Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều nhận định Văn bản số 600/BHXH-KT là văn bản hành chính thông thường, không phải là quyết định hành chính nên không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính, đồng thời xác định thời hiệu khởi kiện đối với Quyết định số 119/BHXH ngày 29/5/1997 đã hết nên đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định giám đốc thẩm số 02/2021/HC-GĐT ngày 27/01/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hủy Quyết định phúc thẩm và Quyết định sơ thẩm giao Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

1.2. Vi phạm trong việc xác định thời hiệu khởi kiện

Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện (khoản 1 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015). Như vậy, Kiểm sát viên cần xác định thời hiệu khởi kiện đối với vụ án còn hay đã hết, trường hợp đương sự thực hiện quyền khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được xác định là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại hoặc kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại đó không được giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại. Trong trường hợp thời hiệu khởi kiện vượt quá thời hạn quy định của pháp luật tố tụng, Kiểm sát viên cần xác định có xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hay không và nếu có thì xác định thời gian cụ thể, đảm bảo tuân thủ quy định của Luật Tố tụng hành chính về thời hiệu khởi kiện.

Ví dụ 1: Vụ án hành chính giữa người khởi kiện là vợ chồng ông Thanh P và bà Quách H với người bị kiện là Ủy ban nhân dân (UBND) quận M, thành phố T. Ngày 18/9/2014, UBND quận M cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số CH03232 cho vợ chồng ông P và bà H. Ngày 13/11/2017, bà H phát hiện GCNQSDĐ số CH03232 cấp thiếu diện tích so với nguồn gốc đất của gia đình nên ông P, bà H đã khiếu nại đến UBND quận M. Ngày 22/6/2018, Chủ tịch UBND quận M ban hành Văn bản số 487/UBND-TD trả lời khiếu nại của ông P, bà H; bà H tiếp tục khiếu nại nên ngày 14/11/2018, Chủ tịch UBND thành phố T ban hành Văn bản số 4048/VPUB-BTCD trả lời khiếu nại của bà H.

Văn bản số 4048/VPUB-BTCD ngày 14/11/2018 của Chủ tịch UBND thành phố T là căn cứ để tính thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính; ngày 14/11/2018, bà H và ông P đã được nhận Văn bản số 4048/VPUB-BTCD ngày 14/11/2018 của Chủ tịch UBND thành phố T. Do đó, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 là 01 năm tính từ ngày 14/11/2018 đến ngày 14/11/2019. Ngày 05/11/2019, ông P, bà H trực tiếp nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân thành phố T. Tòa án 02 cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định thời hiệu khởi kiện 01 năm tính từ ngày 13/11/2017 là không chính xác, mặc dù ngày 13/11/2017 (ngày bà H biết GCNQSDĐ cấp thiếu diện tích) nhưng gia đình bà H đã thực hiện trình tự khiếu nại đến Chủ tịch UBND huyện M, sau đó là UBND thành phố T và gia đình bà H đều nhận được văn bản trả lời khiếu nại. Khi khởi kiện ra Tòa án, ông P và bà H yêu cầu hủy Văn bản trả lời của Chủ tịch UBND thành phố T chứ không yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên thời hiệu khởi kiện được xác định kể từ ngày ông P và bà H nhận được văn bản trả lời của Chủ tịch UBND thành phố T. Nhưng Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 03/2020/QĐST-HC ngày 05/3/2020 của Tòa án thành phố T và Quyết định phúc thẩm số 292/2020/QĐ-PT ngày 15/7/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao đều xác định hết thời hiệu khởi kiện và đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Vì vậy, Quyết định giám đốc thẩm số 51/2021/HC-GĐT ngày 18/11/2021 của Tòa án nhân dân tối cao đã hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho án nhân dân thành phố T giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Ví dụ 2: Ngày 10/11/2014, bà Nguyễn Thị Hồng T và ông Vũ Văn K khiếu nại đề nghị Phòng Đăng ký kinh doanh thành phố M phải hủy bỏ các giấy chứng nhận đăng ký thay đổi lần thứ 23, 24 vì cho rằng ông bà không làm các thủ tục để thay đổi các nội dung đã đăng ký lần thứ 22 của Công ty T, nên các hồ sơ đăng ký thay đổi lần thứ 23 và 24 của Công ty T là hồ sơ giả mạo. Do không thấy khiếu nại được giải quyết, ngày 13/9/2016 bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy bỏ các giấy chứng nhận đăng ký thay đổi lần thứ 23 và 24 của Phòng Đăng ký kinh doanh thành phố M. Theo hồ sơ vụ án thì bà Nguyễn Thị Hồng T và ông Vũ Văn K có đơn gửi Phòng Đăng ký kinh doanh đề nghị hủy bỏ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 23 và 24 được Phòng Đăng ký kinh doanh nhận đơn ngày 10/11/2014. Đối chiếu Điều 27 và Điều 28 Luật khiếu nại năm 2011, thời hạn thụ lý giải quyết là 10 ngày và thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu của bà T là 45 ngày (đối với vùng sâu, vùng xa), tổng cộng là 55 ngày tính từ ngày 10/11/2014 đến ngày 04/01/2015. Sau khi nhận đơn của bà T và ông K, Phòng Đăng ký kinh doanh chỉ tiến hành làm việc với các đương sự nhưng không ban hành văn bản giải quyết khiếu nại. Tòa án 02 cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định thời hiệu vẫn còn để giải quyết vụ án là không đúng theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, do đó Quyết định giám đốc thẩm số 22/2020/HC-GĐT ngày 20/8/2020 của Tòa án nhân dân tối cao đã hủy bản án phúc thẩm, bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.

Qua vụ án này, Kiểm sát viên lưu ý cần đối chiếu các quy định về thời hạn, thời hiệu của pháp luật liên quan đến đối tượng khởi kiện với các tài liệu, văn bản của người bị kiện trình bày:

- Thứ nhất, về cách tính thời hiệu khởi kiện

Căn cứ khoản 2 Điều 33 Luật khiếu nại; điểm b khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính của bà T và ông K là 01 năm kể từ ngày 04/01/2015 và hết hạn vào ngày 04/01/2016. Ngày 13/9/2016, Tòa án nhân dân quận T, thành phố M nhận được đơn khởi kiện của bà T và ông K đã quá thời hiệu khởi kiện 08 tháng 09 ngày.

- Thứ hai, về thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện vụ án

Ngày 04/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố M ban hành Thông báo thụ lý vụ án số 198/TB-TLVA; Ngày 19/01/2017, Phòng Đăng ký kinh doanh ban hành Văn bản số 698/PĐKKD-KT gửi Tòa án nhân dân thành phố M có ý kiến về Thông báo thụ lý vụ án số 198/TB-TLVA của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 128 Luật Tố tụng hành chính 2015 nên không phải là Văn bản giải quyết khiếu nại mà thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện phải áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 33 Luật khiếu nại. Tòa án hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định thời điểm để tính thời hiệu khởi kiện từ ngày Phòng Đăng ký kinh doanh ban hành Văn bản số 698/PĐKKD-KT là không đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.

1.3. Vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án

Thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án được quy định tại các Điều 30, 31, 32, 33, 34 Luật Tố tụng hành chính 2015. Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ đối tượng khởi kiện, nội dung vụ việc; đối chiếu với các quy định liên quan để xác định thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính.

Ví dụ: Ông Hoàng X là viên chức của Trường tiểu học có đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân tỉnh T yêu cầu giải quyết: Hủy Quyết định số 1081/QĐ-UBND ngày 04/12/2015 của Chủ tịch UBND huyện P, tỉnh T về việc xử lý kỷ luật buộc thôi việc ông X do ông có hành vi vi phạm trật tự công cộng; yêu cầu nhận ông X trở lại làm việc và bồi thường về lương, phụ cấp cho ông X trong thời gian buộc thôi việc. Tòa án nhân dân tỉnh T đã thụ lý vụ án theo thủ tục tố tụng hành chính, nhưng sau đó đã đình chỉ vụ án với lý do vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Theo Điều 30 Luật Viên chức, tranh chấp liên quan đến việc ký kết, thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng việc làm được giải quyết theo quy định của pháp luật về lao động nên Quyết định số 1081/QĐ-UBND ngày 04/12/2015 của Chủ tịch UBND huyện P là tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, nhưng Tòa án lại thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính là sai thẩm quyền nên Tòa án cấp giám đốc thẩm xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy án sơ thẩm và phúc thẩm giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

1.4. Vi phạm trong việc xác định người tham gia tố tụng

Vi phạm của Tòa án trong việc xác định người tham gia tố tụng thường xảy ra đối với các vụ án hành chính yêu cầu hủy quyết định giải quyết khiếu nại và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì trong những vụ án này, người khởi kiện trước khi khởi kiện ra Tòa án thường đã được Cơ quan quản lý hành chính cấp xã, phường xem xét giải quyết trước nên dễ nhầm lẫn hoặc xác định sai người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên Kiểm sát viên phải lưu ý xác định đúng, đủ tư cách người tham gia tố tụng và thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Trường hợp Tòa án không đưa hết người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vụ án mà Viện kiểm sát xác định việc không đưa những người này vào sẽ làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án và ảnh hưởng đến chính quyền lợi của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì phải xác định là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng để xem xét việc kháng nghị.

Ví dụ 1: Ông Trần Q khởi kiện yêu cầu hủy các quyết định: Quyết định bồi thường, hỗ trợ số 4902/QĐ-UBND ngày 18/4/2011 và Quyết định bồi thường, hỗ trợ bổ sung số 10670/QĐ-UBND ngày 22/8/2011 của UBND quận 2, thành phố H về thu hồi đất thực hiện dự án mở rộng đường Xa lộ Hà Nội- thành phố Hồ Chí Minh; Quyết định giải quyết khiếu nại số 8810/QĐ-UBND ngày 6/7/2012 của Chủ tịch UBND quận 2 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 4281/QĐ-UBND ngày 10/8/2017 của Chủ tịch UBND thành phố H.

[...]