Công văn 9562/VPCP-QHĐP năm 2018 thực hiện kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 27 do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 9562/VPCP-QHĐP |
Ngày ban hành | 03/10/2018 |
Ngày có hiệu lực | 03/10/2018 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Văn phòng Chính phủ |
Người ký | Nguyễn Văn Tùng |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 9562/VPCP-QHĐP |
Hà Nội, ngày 03 tháng 10 năm 2018 |
Kính gửi: Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Trên cơ sở kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 27 (thông báo số 2231/TB-TTKQH ngày 25 tháng 9 năm 2018), Thủ tướng Chính phủ giao, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ nghiên cứu, tiếp thu:
1. Dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)
Giao Thanh tra Chính phủ phối hợp với Ủy ban Tư pháp và các cơ quan hữu quan chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật, Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, cần lưu ý về việc xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc (Điều 57 của dự thảo Luật), tham mưu giúp Đảng đoàn Quốc hội chuẩn bị báo cáo Bộ Chính trị về 02 phương án:
a) Phương án 1: Thu hồi tài sản, thu nhập tăng thêm này theo trình tự xem xét, giải quyết tại Tòa án;
b) Phương án 2: Coi tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc là thu nhập chưa nộp thuế và Nhà nước sẽ thu thuế thu nhập cá nhân.
2. Dự án Luật Giáo dục (sửa đổi)
Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉnh lý dự thảo Luật; hoàn thiện hồ sơ trình Quốc hội theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 6 và thông qua tại kỳ họp thứ 7, tập trung vào các nội dung sau:
a) Về mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục (Điều 2, Điều 3 của dự thảo Luật), đề nghị nghiên cứu bổ sung nội dung “văn hóa” nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam;
b) Đối với các chính sách, nhất là 02 chính sách mới về không thu học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi, học sinh trung học cơ sở trường công lập và hỗ trợ đóng học phí đối với trẻ em, học sinh diện phổ cập tại cơ sở giáo dục dân lập, tư thục (Điều 95 của dự thảo Luật); về nâng chuẩn trình độ đào tạo đối với giáo viên mầm non từ trung cấp sư phạm lên cao đẳng sư phạm (Điều 70 của dự thảo Luật), cần tiếp tục đầu tư đánh giá tác động của các chính sách mới đối với các đối tượng liên quan; quy định rõ điều kiện, thời điểm, lộ trình triển khai, dự kiến nguồn lực thực hiện. Làm rõ khả năng bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất và các điều kiện khác khi bổ sung quy định về chính sách học phí cho đối tượng phổ cập, chính sách lương nhà giáo, tín dụng sư phạm, giáo dục hòa nhập...
Ngoài ra, cần tiếp tục đánh giá tác động về tính khả thi của các chính sách mới được quy định trong dự thảo Luật khi nguồn lực bảo đảm chỉ giới hạn trong tỷ lệ 20% tổng ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo. Trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, trước mắt ưu tiên thực hiện chính sách trên đối với người học ở vùng miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; trẻ em có hoàn cảnh khó khăn;
c) Về quản trị của cơ sở giáo dục, đề nghị cân nhắc, nghiên cứu tính khả thi của Hội đồng trường gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ trong các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục mầm non;
d) Về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, để bảo đảm thống nhất trong quan điểm và phương thức triển khai thực hiện, cần quy định rõ việc lựa chọn sách giáo khoa để sử dụng ổn định trong giảng dạy và học tập; tránh lãng phí, tạo độc quyền giáo dục trong in, phát hành sách giáo khoa.
3. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học
Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ủy ban Văn hóa, Thanh thiếu niên và Nhi đồng tiếp tục rà soát các quy định của dự thảo Luật, đặc biệt lưu ý các vấn đề sau:
a) Giữ ổn định hệ thống, bao quát được các loại hình, mô hình cơ sở giáo dục đại học hiện có nhưng đồng thời mở hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển lớn mạnh của các trường;
b) Quy định rõ cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện tự chủ; phân định rõ ràng, minh bạch và chế định cụ thể các trường được tự chủ và trường chưa đủ năng lực thực hiện tự chủ. Trong đó, cần làm rõ mối quan hệ giữa thiết chế Hội đồng trường và Hiệu trưởng, việc phân cấp và ủy quyền giữa Hội đồng trường và Hiệu trưởng; phân định rõ vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của từng chủ thể một cách hài hòa để phát huy tối đa ưu thế của tự chủ và bảo đảm chế độ trách nhiệm của cá nhân và của tập thể;
c) Cần làm rõ hơn việc phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, giữa trung ương và địa phương để bảo đảm thống nhất trong công tác quản lý nhà nước. Chú trọng công tác kiểm định các cơ sở đào tạo, chương trình đào tạo; quy định rõ điều kiện, tiêu chuẩn, trách nhiệm của tổ chức kiểm định để bảo đảm và nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đánh giá chất lượng;
d) Ngoài ra, đề nghị rà soát kỹ lưỡng về các thuật ngữ và kỹ thuật lập pháp nhằm bảo đảm tính khoa học, ngắn gọn, thống nhất trong cách hiểu; bảo đảm tính tương thích trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là với Luật Giáo dục, Luật Đầu tư; hoàn thiện thêm các nội dung của dự thảo Luật, gửi xin và tiếp thu ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 6.
4. Dự án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia
Giao Bộ Y tế nghiên cứu, tiếp thu, hoàn chỉnh dự án Luật theo Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban về các vấn đề Xã hội và ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn thiện, nâng cao chất lượng dự án Luật, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, trong đó lưu ý một số vấn đề sau:
a) Tiếp tục cân nhắc kỹ về tên gọi của Luật và kinh phí phục vụ hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia để trình Quốc hội thảo luận;
b) Về phạm vi điều chỉnh dự thảo Luật, nghiên cứu để thể hiện rõ mục tiêu thực hiện các biện pháp bảo vệ sức khỏe người dân khỏi tác hại của rượu, bia thông qua việc quy định các biện pháp giảm mức tiêu thụ rượu, bia; quản lý việc cung cấp, hạn chế tính sẵn có, tính có sẵn của rượu, bia; giảm tác hại và bảo đảm nguồn lực để phòng, chống tác hại của rượu, bia; kinh phí được dự toán chung trong dự toán ngân sách hằng năm, không nên ưu tiên trích từ số thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia;
c) Về điều kiện kinh doanh rượu, bia, đề nghị Ban soạn thảo rà soát để quy định vấn đề này phù hợp với quy định của Luật Đầu tư về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các văn bản pháp luật có liên quan;
d) Về rượu thủ công, cần có quy định và lộ trình quản lý phù hợp để có thể kiểm soát tốt chất lượng, điều kiện bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với rượu thủ công;
đ) Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cần quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phòng, chống tác hại của rượu, bia; đặc biệt là cơ chế thực hiện, kiểm tra, quản lý, giám sát, xử lý vi phạm để đảm bảo tính khả thi của dự thảo Luật;
e) Rà soát lại các quy định của dự thảo Luật để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật và tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan; tính thống nhất giữa các quy định trong dự thảo Luật;
g) Tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật, trong đó, rà soát và chỉnh lý Báo cáo đánh giá tác động của chính sách, đánh giá tác động nghiêm túc các chính sách mới của dự án Luật so với chính sách được nêu tại Đề xuất xây dựng dự án Luật; Báo cáo đánh giá tác động về thủ tục hành chính; Báo cáo tổng kết thi hành đầy đủ các văn bản pháp luật có liên quan đến phòng, chống tác hại của rượu, bia; bổ sung dự thảo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;