Công văn 4962/VKSTC-V14 về giải đáp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, viện kiểm sát các cấp qua sơ kết, giao ban công tác 9 tháng đầu năm 2023 do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 4962/VKSTC-V14
Ngày ban hành 15/11/2023
Ngày có hiệu lực 15/11/2023
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký Hoàng Thị Quỳnh Chi
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 4962/VKSTC-V14
V/v giải đáp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, VKS các cấp qua sơ kết, giao ban công tác 9 tháng đầu năm 2023

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2023

 

Kính gửi:

- Viện kiểm sát quân sự trung ương;
- Các đơn vị thuộc VKSND tối cao;
- VKSND cấp cao 1, 2, 3;
- VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo VKSND tối cao về tham mưu giải đáp khó khăn, vướng mắc, kiến nghị, đề xuất của các đơn vị, VKS các cấp qua sơ kết, giao ban công tác 9 tháng năm 2023, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, VKSND tối cao (Vụ 14) giải đáp một số nội dung liên quan đến trách nhiệm của Vụ 14 như sau:

A. VỀ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC

I. Khó khăn, vướng mắc liên quan đến hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự

1. Vướng mắc trong việc áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 về tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”.

Trả lời:

Về mặt kỹ thuật lập pháp, việc sử dụng dấu giữa hai nội dung “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 được hiểu là nếu người phạm tội: (1) có một trong hai điều kiện “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”; hoặc (2) có cả hai điều kiện này, thì cũng chỉ được coi là thoả mãn 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Từ đó, trường hợp người phạm tội thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải mà không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào khác thì cũng chỉ coi là thoả mãn 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Trong quá trình xây dựng và áp dụng BLHS năm 2015 thời gian qua, VKSND tối cao đều nhất quán với quan điểm này.

Ngày 31/8/2023, TAND tối cao cùng đã có Công văn 174/TANDTC-PC về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Theo đó, tình tiết “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được hiểu là trường hợp người phạm tội thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội, ăn năn hối lỗi về việc mình đã gây ra; tình tiết “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” không phải là hai tình tiết độc lập. Do đó, nếu người phạm tội “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” thì chỉ được coi là có một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

2. Chưa có hướng dẫn cụ thể về tình tiết “người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015.

Trả lời:

Đây là nội dung được BLHS năm 2015 kế thừa từ BLHS năm 1999 và hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn mới về vấn đề này, tuy nhiên, quy định về tình tiết này của BLHS năm 2015 không có sự thay đổi so với trước đây; do vậy, trong khi chưa có văn bản mới có hiệu lực hướng dẫn về tình tiết này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể vận dụng tinh thần tại mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn đối với BLHS năm 1999 để xử lý, giải quyết[1].

3. Xác định thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính mà không thi hành quyết định xử phạt (không thuộc trường hợp “cố tình trốn tránh, trì hoãn”, việc không thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là do lỗi của cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt)?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “1. Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa... 2. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn”.

Theo các quy định nêu trên, đối với trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính không thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (không thuộc trường hợp “cố tình trốn tránh, trì hoãn”, việc không thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là do lỗi của cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt) mà hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thì xác định người đó được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính người đó không tái phạm.

4. Xác định thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính mới thi hành một phần quyết định xử phạt vi phạm hành chính, không thi hành tiếp phần còn lại (không thuộc trường hợp “cố tình trốn tránh, trì hoãn” việc thi hành phần quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn lại và cơ quan ra quyết định xử phạt cũng không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành phần còn lại)?

Trả lời:

Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “1. Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa... 2. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn”.

Do vậy, trường hợp người bị xử phạt vi phạm hành chính đã thi hành được một phần quyết định xử phạt vi phạm hành chính, không thi hành tiếp phần còn lại (không thuộc trường hợp “cố tình trốn tránh, trì hoãn” việc thi hành phần quyết định xử phạt vi phạm hành chính còn lại và cơ quan ra quyết định xử phạt cũng không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành phần còn lại) thì xác định người đó được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính người đó không tái phạm.

5. Trường hợp người bị xử phạt đã bị cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính triệu tập lên làm việc, lập biên bản về việc chưa nộp phạt do hoàn cảnh khó khăn và cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính không có biện pháp gì khác thì có xác định người bị xử phạt “cố tình trốn tránh, trì hoãn” không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 7, khoản 8a Điều 12Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính, nếu người bị xử phạt không thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là vì nguyên nhân khách quan (không có khả năng nộp phạt...) và người bị xử phạt không cố tình trốn tránh, trì hoãn (chấp hành theo giấy mời làm việc của cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính,...), đồng thời, cơ quan ra quyết xử phạt vi phạm hành chính cũng không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt theo quy định thì không thuộc trường hợp người bị xử phạt “cố tình trốn tránh, trì hoãn”.

6. Trong việc áp dụng hướng dẫn trường hợp đương nhiên được xóa án tích theo Điều 70 BLHS năm 2015, còn vướng mắc đối với trường hợp khi người bị kết án (sau này là bị can, bị cáo trong một vụ án mới) không nhận được thông báo và quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án dân sự nên chưa thi hành hình phạt bổ sung, chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án thì có được coi là chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án hay không?

Trả lời:

- Đối với các trường hợp thi hành thuộc trường hợp thi hành án chủ động (án phí, hình phạt tiền): nếu chưa chấp hành xong thì không đương nhiên được xóa án tích.

- Đối với trường hợp thi hành trách nhiệm bồi thường cho bị hại: khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015 quy định về điều kiện đương nhiên xóa án tích: “Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án... ”.

Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể trường hợp đã hết thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự (đối với trường hợp thi hành án dân sự theo yêu cầu của người được thi hành án hoặc yêu cầu của người phải thi hành án) có được coi là “đã chấp hành xong” các quyết định khác của bản án hình sự hay không hoặc có được coi là đủ điều kiện để đương nhiên xóa án tích theo Điều 70 BLHS năm 2015 hay không; pháp luật chỉ có quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với trường hợp thi hành trách nhiệm bồi thường cho bị hại; theo đó, “thời hiệu yêu cầu thi hành án” là thời hạn mà người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án; hết thời hạn đó thì mất quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự; đồng thời, trường hợp hết thời hiệu yêu cầu thi hành án là một trong những trường hợp Cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án.

Do vậy, cần căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 70 BLHS năm 2015, khoản 5 Điều 3, Điều 30, điểm c Điều 31 Luật Thi hành án dân sự để xem xét có thỏa mãn điều kiện hết thời hiệu yêu cầu thi hành án, được đương nhiên xóa án tích.

[...]