Công văn 2160/VKSTC-V14 năm 2023 về giải đáp khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 2160/VKSTC-V14
Ngày ban hành 05/06/2023
Ngày có hiệu lực 05/06/2023
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký Hoàng Thị Quỳnh Chi
Lĩnh vực Bộ máy hành chính,Trách nhiệm hình sự

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 2160/VKSTC-V14
V/v giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của BLHS, BLTTHS, THTG và THAHS

Hà Nội, ngày 05 tháng 6 năm 2023

 

Kính gửi:

- Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương;
- Thủ trưởng đơn vị thuộc VKSND tối cao: Vụ 1, Vụ 2, Vụ 3, Vụ 4, Vụ 5, Vụ 6, Vụ 7, Vụ 8, Vụ 12, Vụ 13, Cục 1, Văn phòng, Thanh tra, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh;
- Viện trưởng VKSND cấp cao 1,2, 3;
- Viện trưởng VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Qua thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự và kiểm sát thi hành án hình sự, VKSND tối cao nhận được ý kiến phản ánh đề nghị hướng dẫn, giải đáp khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) (BLHS năm 2015), Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, về thi hành tạm giữ và thi hành án hình sự (THAHS). Để nâng cao nhận thức áp dụng các quy định, tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân, VKSND tối cao có ý kiến như sau:

I. Về một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của BLHS năm 2015

1. Xử lý như thế nào đối với phương tiện, công cụ phạm tội trong 02 trường hợp: (1) phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản của người phạm tội đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng; (2) phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng?

Trả lời:

1.1. Theo quy định tại khoản 9 Điều 21 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: “Trường hợp tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ hoặc bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được xác định là không còn tài sản bảo đảm…”. Và quy định tại khoản 3 Điều 49 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP nêu trên thì “Trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định tài sản đang dùng để bảo đảm phải xử lý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác thì tài sản này được xử lý theo quy định đó”. Như vậy, trường hợp bị can sử dụng tài sản đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng vào việc phạm tội thì việc xử lý tài sản thực hiện theo quy định Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 tức là bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy. Quyền lợi của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng được giải quyết theo quy định về khởi kiện vụ án dân sự.

1.2. Khoản 3 Điều 47 BLHS năm 2015 quy định: Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu”. Do vậy, trường hợp phương tiện, công cụ phạm tội được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng thì tùy từng trường hợp, nếu xác định được vợ/chồng có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như biết rõ mà vẫn đồng ý hoặc cho phép) thì phương tiện, công cụ phạm tội đó có thể bị tịch thu toàn bộ; nếu xác định vợ/chồng không có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như không biết việc chồng/vợ sử dụng vào việc phạm tội sử dụng vào việc phạm tội) thì có thể không tịch thu phần giá trị tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng.

2. Trong khoảng thời gian 21 giờ ngày 01/01/2020, A đã có hành vi dùng vũ lực, đe dọa và thực hiện hành vi hiếp dâm đối với bà B tại nhà bà B. Trong khoảng thời gian 10 giờ ngày 03/02/2020, A lại có hành vi hiếp dâm đối với bà C tại nhà bà C. Có áp dụng tình tiết “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015 để xử lý A hay không?

Trả lời:

Tình tiết “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015 được hiểu là trong một lần thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội đối với 02 người trở lên. Theo đó, đối với trường hợp trên, hành vi phạm tội thực hiện ở 02 địa điểm khác nhau và thời gian thực hiện hành vi tại mỗi địa điểm cách xa nhau (01 tháng 02 ngày) thì không thuộc trường hợp phạm tội “đối với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015, mà thuộc trường hợp “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015, nếu trong các lần đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Anh A và chị B chung sống với nhau như vợ chồng đã có con chung, được gia đình, dòng họ hai bên, hàng xóm xác nhận là vợ chồng. A có hành vi hiếp dâm bà C (mẹ ruột của chị B). Vậy có căn cứ để xử lý A về tội Hiếp dâm với tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất loạn luân” theo điểm e khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015 không?

Trả lời:

Điểm đ khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi quy định: “Có tính chất loạn luân quy định tại điểm e khoản 2 Điều 141 ... của Bộ luật Hình sự là một trong các trường hợp sau đây:... đ) Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể”. Theo các khoản 1, 2, 7, 16 Điều 3, khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng và các mối quan hệ khác khi quan hệ vợ chồng phát sinh nếu nam, nữ không đăng ký kết hôn theo quy định. Do vậy, chỉ xác định mối quan hệ con rể - mẹ vợ kể từ khi nam, nữ có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn quy định tại mục 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân gia đình và khoản 2 Điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch).

Trong trường hợp nêu trên, mặc dù anh A và chị B chung sống với nhau như vợ chồng đã có con chung, được gia đình, dòng họ hai bên, hàng xóm đều xác nhận họ là vợ chồng nhưng nếu không đăng ký kết hôn thì theo quy định của pháp luật hiện hành nêu trên, giữa anh A và bà C không phát sinh mối quan hệ con rể - mẹ vợ; do vậy, không có căn cứ để xác định hành vi anh A hiếp dâm bà C là “có tính chất loạn luân” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015, trừ trường hợp anh A, chị B chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987.

4. Trong vụ án giao cấu với bị hại 13 tuổi dẫn đến bị hại có thai và sinh con (bị cáo 20 tuổi), Tòa án xác định bị cáo có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vậy mức cấp dưỡng nuôi con có phụ thuộc vào độ tuổi của người bị hại hay không?

Trả lời:

Khoản 1 Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đủ thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Pháp luật không có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng theo độ tuổi của người bị hại (người mẹ). Do đó, không có căn cứ pháp luật để xác định mức cấp dưỡng nuôi con theo độ tuổi của người bị hại.

5. A nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của B nên đã nhờ C làm hợp đồng, xuất hóa đơn giá trị gia tăng khống và nói cho C biết là dùng hợp đồng này để đi vay tiền của người khác. Vì thân quen nhau nên C đã giúp A xuất khống hợp đồng mua tài sản giũa công ty của C với A có giá trị là 1.600.000.000 đồng và xuất hóa đơn giá trị gia tăng thể hiện A đã trả cho C số tiền 1.000.000.000 đồng, còn thiếu 600.000.000 đồng. A đem hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống này đến lừa dối B là mua tài sản còn thiếu 600.000.000 đồng để B cho vay số tiền 600.000.000 đồng và thế chấp tài sản đã mua này cho B. B tin tưởng vì có hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng, có đóng dấu mộc của công ty C nên B đưa 600.000.000 đồng cho A, A chiếm đoạt tiêu xài cá nhân hết. Vậy C đồng phạm với A về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản không?

Trả lời:

Hành vi làm hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống của C là hành vi "tạo ra điều kiện vật chất" cho A vay được tiền của B, có dấu hiệu đồng phạm theo quy định tại Điều 17 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, chỉ xác định C đồng phạm với A khi chứng minh được: mặc dù C biết A sẽ sử dụng hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng C vẫn làm hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống cho A. Nếu C chỉ nhận thức việc mình làm là tạo điều kiện cho A thực hiện thủ tục vay tiền và C không biết việc A sẽ sử dụng hợp đồng và hóa đơn giá trị gia tăng khống để gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của B thì không xác định C đồng phạm với A. Ngoài ra, cần xem xét đầy đủ các tài liệu, chứng cứ khác để xử lý hành vi của C nếu có dấu hiệu của tội phạm khác.

6. Trường hợp lãi suất trong quan hệ hụi, họ vượt quá lãi suất giới hạn theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường (Nghị định số 19/2019/NĐ-CP) thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Trả lời:

Căn cứ Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 3, Điều 21, khoản 2 Điều 25 và khoản 2 Điều 28 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP thì họ, hụi, biêu, phường là hình thức giao dịch vay tài sản được pháp luật dân sự điều chỉnh1 và bảo đảm hoạt động. Trường hợp lãi suất trong quan hệ hụi, họ có lãi suất vượt quá lãi suất giới hạn theo quy định của pháp luật dân sự mà đủ yếu tố cấu thành tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự quy định tại Điều 201 BLHS thì người thực hiện hành vi có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

7. Quy định của Điều 229 BLHS năm 2015 là có lợi hay không có lợi cho người phạm tội so với quy định của Điều 174 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) (BLHS năm 1999) đối với hành vi phạm tội xảy ra trong các năm 2016, 2017 và 2018?

Trả lời:

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 quy định việc thi hành BLHS số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của BLTTHS số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (Nghị quyết số 41/2017/QH14) thì những quy định của BLHS năm 2015 không có lợi cho người phạm tội so với quy định của BLHS năm 1999 thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0h00’ ngày 01/01/2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng cửa BLHS năm 1999 và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999 để giải quyết.

Qua đối chiếu cho thấy, quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 đã định lượng, nhằm cụ thể hóa các tình tiết định tính (đất có diện tích lớn hoặc giá trị lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) tại các điểm, khoản của Điều 174 BLHS năm 1999. Do vậy, việc xác định quy định của Điều 229 BLHS năm 2015 là không có lợi hay có lợi cho người phạm tội so với Điều 174 BLHS năm 1999 thì tùy từng trường hợp cụ thể, trong quá trình phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0h00’ ngày 01/01/2018, các cơ quan tố tụng ở địa phương căn cứ vào tình tiết, hậu quả xảy ra trong từng vụ việc cụ thể để trao đổi, xem xét, thống nhất xử lý; cần theo các trường hợp như sau:

- Nếu áp dụng quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 mà đủ điều kiện xử lý hình sự, còn áp dụng quy định tương ứng tại Điều 174 BLHS năm 1999 thì không đủ điều kiện xử lý hình sự đối với người có hành vi vi phạm thì quy định tại Điều 229 BLHS năm 2015 là không có lợi và không được áp dụng để xử lý.

[...]