TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
40/KHXX
|
Hà
Nội, ngày 06 tháng 7 năm 1996
|
CÔNG VĂN
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 40/KHXX NGÀY 6 THÁNG 7 NĂM 1996 VỀ VIỆC HƯỚNG
DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP
LAO ĐỘNG
Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) đựoc Uỷ ban
thương vụ Quốc hội thông qua ngày 11-4-1996 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996. Để
thi hành đúng và thống nhất các quy định của Pháp lệnh, Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn một số điểm như sau:
A. VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN LAO ĐỘNG
1.
Về các vụ án về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Theo quy định tại Điều 166, Điều 168 của Bộ luật Lao động và Điều
11 của Pháp lệnh thì Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án lao động về
tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể.
- Tranh chấp lao động
cá nhân là tranh chấp giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động về
quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện
lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động và trong quá trình học nghề; về xử
lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động; về bồi thường thiệt hại cho người sử dụng lao động.
-Tranh chấp lao động
tập thể là tranh chấp giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động về quyền
và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động
khác; về thực hiện thoả ước lao động tập thể; về quyền thành lập, gia nhập, hoạt
động công đoàn.
2.Về
quyền khởi kiện, khởi tố vụ án lao động.
Khác với việc khởi
kiện vụ án dân sự, việc khởi kiện vụ án lao động có những đặc thù riêng; cụ thể
là:
a.Theo quy định tại
Điều 1 của Pháp lệnh thì những người sau đây có quyền khởi
kiện vụ án lao động tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp mình:
- Người lao động;
- Tập thể lao động;
- Người sử dụng
lao động.
b. Trong trường hợp
cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể lao động thì theo quy định tại
Điều 1 của Pháp lệnh, công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở
có quyền khởi kiện vụ án lao động tại Toà án có thẩm quyền.
c. Theo quy định tại
Điều 28 của Pháp lệnh thì đối với những vi phạm pháp luật
có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động là người chưa
thành niên, người tàn tật và các vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác, nếu không
có ai khởi kiện, thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án lao động tại Toà án
có thẩm quyền. Người lao động chưa thành niên theo quy định tại Điều
119 của Bộ luật lao động là người dưới 18 tuổi.
d. Trong trường hợp
người nộp đơn không thuộc một trong các trường hợp a và b trên đây thì Toà án
phải trả lại đơnn kiện theo quy định tại điểm a Điều 34 của
Pháp lệnh.
đ. Theo quyđịnh tại
Điều 120, Điều 125 của Bộ luật lao động, thì ngoài những
người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên), người lao động có thể là người từ đủ
15 tuổi đến dưới 18 tuổi, người chưa đủ 15 tuổi (đối với một số nghề và công việc
được nhận trẻ em chưqa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề... do Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội quy định), người tàn tật...; do đó, khi có một
trong các bên đương sự là người lao động thuộc diện này, Toà án cần chú ý thực hiện
đúng các quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh, cụ thể là:
- Người lao động từ
đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện quyền ,nghĩa vụ của đương sự
trong tố tụng.
- Trẻ em chưa đủ
15 tuổi thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng thông qua người đại
diện. Người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể tự mình tham gia tố
tụng, những khi cần thiết, Toà án triệu tập người đại diện của họ tham gia tố tụng.
- Nếu đương sự là
người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không thể tham gia tố tụng được
thì phải có người đại diện của họ tham gia tố tụng.
Trong trường hợp
không có người đại diện cho đương sự nói tại khoản 33 Điều này tham gia tố tụng,
Toà án chỉ định một người thân thích của đương sự hoặc một thành viên của một tổ
chức xã hội làm người đại diện cho họ.
e. Theo quy định tại
Điều 18 của Bộ luật lao động, thì tranh chấp lao động được
giải quyết theo những nguyên tắc thương lượng trực tiếp và tự dàn xếp giữa hai
bên tranh chấp tại nơi phát sinh tranh chấp; thông qua hoà giải, trọng tài trên
cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên, tôn trọng lợi ích của xã hội và
tuân theo pháp luật. Xuất phát từ những nguyên tắc đó và theo quy định tại Điều 166 của Bộ Luật lao động và Điều 11 của
Pháp lệnh, Toà án chỉ thụ lý giải quyết các tranh chấp lao động với những
điều kiện sau đây:
- Nếu tranh chấp
lao động cá nhân, thì trước khi khởi kiện tại Toà án, các bên phải đưa việc
tranh chấp ra Hội đồng hoà giải cơ sở hoặc hoà giải viên lao động của cơ quan
lao động cấp huyện hoà giải. Chỉ trong trường hợp hoà giải không thành, kèm
theo đơn khởi kiện phải có biên bản hoà giải không thành của Hội đồng hoà giải
cơ sở hoặc của hoà giải viên của cơ quan lao động cấp huyện lập) thì toà án mới
thụ lý giải quyết. Thời hạn khởi kiện đối với các tranh chấp này là sáu tháng,
kể từ ngày hoà giải không thành (điểm b, khoản 1 Điều 32 của
Pháp lệnh)
Đối với tranh chấp
về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động; tranh chấp về bồi thương thiệt hại cho người
sử dụng lao động (theo quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều
166 của Bộ luật lao động và các điểm a, b khoản 1 Điều 11 của
Pháp lệnh), thì Toà án thụ lý giải quyết không đòi hỏi điều kiện nhất thiết
phải qua hoà giải tại cơ sở. Thời hạn khởi kiện đối với các tranh chấp này là 1
năm, kể từ ngày phát sinh tranh chấp (điểm a khoản 1 Điều 32 của
Pháp lệnh). Quy định này không hạn chế quyền của các bên đưa tranh chấp ra
Hội đồng hoà giải cơ sở hoặc hoà giải viên của cơ quan lao động cấp huyện hoà
giải và ngược lại, việc họ đưa tranh chấp ra hoà giải đó cũng không hạn chế quyền
của họ khởi kiện ra Toà án (nếu họ thấy khả năng hoà giải không thành) và vẫn
trong thời hiệu khởi kiện 1 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Trong trường hợp
họ đã tiến hành hoà giải tại cơ sở và đã có kết quả hoà giải thì Toà án chỉ thụ
lý giải quyết nếu kết quả hoà giải không thành. Thời hạn khởi kiện trong trường
hợp này là 6 tháng, kể từ ngày hoà giải không thành. Toà án không thụ lý vụ án
nếu sự việc đã được hoà giải thành (có biên bản hoà giải thành) do hội đồng hoà
giải cơ sở hoặc do hoà giải viên lao động thực hiện, vì hai bên có nghĩa vụ chấp
hành các thoả thuận trong biên bản hoà giải thành theo quy định tại khoản 2 Điều 164 của Bộ luật lao động mà trả lại đơn khởi kiện
theo quy định tại điểm d - Điều 34 của Pháp lệnh.
- Theo quy định tại
Điều 172 của Bộ luật lao động và khoản 2 Điều
11 của Pháp lệnh, thì Toà án chỉ thụ lý giải quyêt các tranh chấp lao động
tập thể, nếu đã được Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết mà một
trong các bên hoặc cả hai bên không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng
tài lao động. Kèm theo đơn khởi kiện, bên khởi kiện phải nộp bản sao quyết định
của Hội đồngtrọng tài lao động về việc giải quyêt tranh chấp lao động. Thời hạn
khởi kiện là 3 tháng kể từ ngày cóquyết định của Hội đồng trọng tài lao động cấp
tỉnh.
Cần lưu ý là theo
quy định tại khoản 2 Điều 172 của Bộ luật lao động nếu tập
thể lao động không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, thì họ
có quyền chọn một trong hai biện pháp giải quyết tranh chấp lao động tập thể,
đó là:
- Khởi kiện vụ án
lao động yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp và không được đình công, trừ trường
hợp họ rút đơn khởi kiện trước khi toà án ra quyết định giải quyết tranh chấp
lao động đó.
- Thực hiện quyền
đình công theo quy định của Pháp luật mà không có quyền khởi kiện vụ án lao động
để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp lao động tập thể.
Trong trường hợp
Thủ tướng Chính phủ quyết định việc hoãn hoặc ngừng cuộc đình công theo quy định
tại Điều 175 của Bộ luật lao động, nếu tập thể lao động khởi
kiện tại toà án, thì Toà án thụ lý giải quyết tranh chấp lao động theo quy định
chung và giải thích để tập thể lao động đó biết là họ không có quyền đình công
nữa.
3.Về
thời hiệu khởi kiện.
Khi xem xét về thời
hiệu khởi kiện được quy định tại khoản 1 Điều 32 của Pháp lệnh
để quyết định thụ lý vụ án (Điều 35), trả lại đơn kiện (điểm c Điều 34), đình chỉ giải quyết vụ án (điểm
d khoản 1 Điều 41), cần áp dụng theo các quy định tại các Điều
từ 168 đến 171 của Bộ luật dân sự về thời gian không tính vào thời hạn khởi
kiện, tính lại thời gian khởi kiện để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người
khởi kiện.
Bộ luật lao động
có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, do đó các tranh chấp lao động mà Bộ luật quy định
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân (Điều 157)
lẽ ra phải được thụ lý giải quyết các tranh chấp lao động có hiệu lực thi hành
từ ngày 1/7/1996, vì vậy các loại tranh chấp lao động phát sinh từ ngày
1/1/1995 đến trước ngày 1/7/1996 đều được áp dụng thời hiệu khởi kiện quy định
tại Điều 32 của Pháp lệnh và thời hiệu đó chỉ được tính từ
ngày 1/7/1996. Riêng đối với bốn tranh chấp lao động được quy định tại Nghị định
số 10/NĐ-HĐBT ngày14/1/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thì thời hạn
khởi kiện được tính theo quyđịnh của Nghị định này, Thông tu liên ngành số
03/TTLN ngày 2/10/1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiẻm sát nhân dân tối
cao , Tổng cục dạy nghề (nay là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ) hướng dẫn
thực hiện thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân về một số việc tranh chấp lao động
và các văn bản pháp luật có liên quan; đó là:
- Công nhân, viên
chức Nhà nước bị xử lý bằng hình thức buộc thôi việc;
- Học sinh học nghề,
giáo viên dạy nghề và thực tập sinh ở nước ngoài bị buộc phải bồi thường phí tổn
đào tạo cho Nhà nước vì bị xử lý kỷ luật;
- Những người đi hợp
tác lao động với nước ngoài bị buộc phải bồi thường phí tổn cho Nhà nước vì vi
phạm hợp đồng, bị kỷ luật phải về nước trước thời hạn;
- Những tranh chấp
giữa người làm công với chủ tư nhân.
Các tranh chấp lao
động phát sinh trước ngày Bộ luật có hiệu lực (1/1/1995), ngoài 4 loại tranh chấp
nói trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân; do đó, nếu có
đơn khởi kiện, thì Toà án không thụ lý giải quyết và giải thích rõ cho đương sự
rõ.
4.
Về việc hoà giải trong quá trình giải quyết vụ án lao động.
Điều
38 quy định việc hoà giải để các đương sự có thể thoả
thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Trong trưòng hợp các bên thoả thuận được
với nhau về giải quyết vụ án, thì Toà án lập biên bản hoà giải thành có chữ ký
của các bên đương sự, của Thư ký toà án, Thẩm phán ký tên và đóng dấu của Toà
án vào biên bản thoả thuận đó. Khác với thủ tục công nhận thoả thuận giữa các
đương sự trong vụ án dân sự là Toà án phải gửi biên bản hoà giải thành cho các
đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp và sau khi hết hạn 15 ngày đươbg sự không
thay đổi ý kiến, Viện kiểm sát không kiến nghị thì Toà án mới ra quyết định
công nhận sự thoả thuận giữa các đương sự. Trong vụ án lao động, Toà án ra ngay
quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự; quyết định này có hiệu lực
pháp luật, các đương sự không có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, mà chỉ
có quyền khiếu nại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Viện kiểm sát nếu
phát hiện thấy có vi phạm pháp luật trong quá trình hoà giải hoặc áp dụng pháp
luật khi ra quyết định công nhận thoả thuận giữa các đương sự, thì có quyền
kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm hoặc theo trình tự tái thẩm (nếu phát hiện
có tình tiết mới).
Trong trường hợp
hoà giải không thành thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành và ra quyết định
đưa vụ án ra xét.
5.
Về một số vấn đề khác.
a) Hội đồng xét xử
vụ án lao động có trình tự sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân
theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh.
b) Ngoài những hướng
dẫn trên đây, các quy định khác như:
- Về việc bị đơn từ
chối khai báo, cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng;
- Về việc thay đổi
thành phần Hội đồng xét xử hay những người tiến hành tố tụng khác;
- Về người đại diện
của đương sự;
- Về việc tạm đình
chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án lao động;
- Về việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
...
Các Toà án áp dụng
các hướng dẫn tương ứng tại Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án quân sự" để giải quyết những vấn đề
tương tự trong quá trình giải quyết các vụ án lao động.
B. VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC CUỘC ĐÌNH CÔNG
Theo quy định tại khoản 2 Điều 176 của Bộ lao động, Toà án nhân dân có thẩm quyền
kết luận cuộc đình công hợp pháp hay bất hợp pháp. Đây là loại việc mới và rất
nhạy cảm; do đó, khi có đơn yêu cầu Toà án kết hợp cuộc đình công hợp pháp hoặc
bất hợp pháp thì cần khẩn trương nhưng thận trọng giải quyết nhằm hạn chế thấp
nhất ảnh hưởng của cuộc đình công tới tình hình chính trị và trật tự xã hội tại
địa phương. Việc thụ lý giải quyết các cuộc đình công phải chú ý một số điểm
sau đây:
1. Những người có quyền nộp đơn đến Toà án yêu cầu kết luận cuộc đình
công hợp pháp hoặc bất hợp pháp
Theo quy định tại Điều 87 của Pháp lệnh thì những người sau đây có quyền nộp
đơn đến toà án yêu cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp:
a. Ban chấp hành
công đoàn cơ sở nơi tập thể lao động đình công có quyền nộp đơn dến Toà án yêu
cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp;
b. Người sử dụng
lao động nơi tập thể lao động đình công có quyền nộp đơn đến Toà án yêu cầu kết
luận tính bất hợp pháp của cuộc đình công.
c. Trước khi bắt đầu
đình công hoặc trong quá trình đình công cơ quan lao động cấp tỉnh, Liên Đoàn
lao động cấp tỉnh nơi có cuộc đình công có quyền gửi văn bản đến toà án yêu cầu
kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp;
d. Viện kiểm soát
nhân dân có quyền khởi tố để yêu cầu Toà án kết luận cuộc đình công là bất hợp
pháp.
2. Về việc thụ lý yêu cầu, văn bản yêu cầu, văn bản khởi tố yêu cầu kết
luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp.
Khi xem xét thụ lý
đơn yêu cầu theo quy định tại Điều 91 của Pháp lệnh, Toà
án cần kiểm tra nội dung đơn yêu cầu và các tài liệu kèm theo đơn như đã được
quy định tại điều 88 của Pháp lệnh, cụ thể là:
a. Nếu đơn yêu cầu
Toà án giải quyết cuộc đình công của tập thể lao động, của người sử dụng lao động
thì cần phải xem xét đã có đầy đủ các nội dung quy định tại khoản
1 Điều 88 của Pháp lệnh hay chưa? Nếu chưa có đầy đủ các nội dung đó, thì
yêu cầu tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động làm lại đơn đúng theo quy
định tại khoản 1 Điều 88 của Pháp lệnh. Nếu đã có đầy đủ
các nội dung đó, thì xem xét kèm theo đơn yêu cầu đã có các bản yêu cầu, bản
thông báo về cuộc đình công, quyết định của Hội đồng Trọng tài lao động cấp tỉnh
về việc giải quyết vụ tranh chấp lao động tập thể và các giấy tờ, tài liệu có
liên quan đến việc giải quyết cuộc đình công hay chưa? Đối với người nộp đơn là
người sử dụng lao động thì cần phải xem xét họ đã nộp tiền lệ phí theo mức do
chính phủ quy định hay chưa?
b. Nếu văn bản yêu
cầu toà án kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp của cơ quan lao động
cấp tỉnh, của Liên đoàn lao động của cấp tỉnh, cũng như văn bản khởi tố của Viện
kiểm sát nhân dân, thì cần phải xem xét đã có đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 88 của Pháp lệnh hay chưa? Nếu chưa có đầy đủ
các nội dung đó, thì yêu cầu cơ quan làm lại văn bản yêu cầu theo đúng quy định
tại khoản 2 Điều 88 của Pháp lệnh. Nếu đã có đầy đủ các nội
dung đó, thì xem xét kèm theo văn bản yêu cầu đã có các tài liệu, chứng cứ liên
quan đến việc yêu cầu kết luận cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp hay
chưa?
c. Nếu sau khi xem
xét, thấy đơn yêu cầu, văn bản yêu cầu, văn bản khởi tố đã có đầy đủ các nội
dung theo yêu cầu quy định tại khoản 1, 2 Điều 88 của Pháp lệnh
và đã có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu, chứng cứ kèm theo và xết thấy doanh nghiệp
nơi tập thể lao động đình công không thuộc danh mục các doanh nghiệp cấm đình
công do Chính phủ quy định, đồng thời xét thấy việc giải quyết cuộc đình công
thuộc thẩm quyền của mình, thì Toà án vào sổ thụ lý đơn và thông báo cho ban chấp
hành công đoàn cơ sở; người sử dụng lao động, cơ quan lao động cấp tỉnh, Liên
đoàn lao động cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp biết.
d. Việc thụ lý và
giải quyết đình công phải được tiến hành khẩn trương nhằm tạo hạn chế ảnh hưỏng
của nó tới quyền lợi của ngưòi lao động, của người sử dụng lao động và ảnh hưởng
của nó tới trật tự an toàn xã hội; do đó, ngoài việc không được vượt quá thời hạn
quy định tại các Điều 91, 92 của Pháp lệnh, Toà án phải
tích cực rút ngắn thời hạn thụ lý và thời hạn giải quyết việc đình công.
3. Những việc cần tiến hành ngay sau khi thụ lý đơn yêu cầu.
a. Ngay sau khi thụ
lý đơn yêu cầu Chánh toà Toà lao động Toà án nhân dân cấp tỉnh phân công một Thẩm
phán giải quyết cuộc đình công và một Thư ký Toà án giúp Thẩm phán trong việc lập
hồ sơ giải quyết việc đình công.
b. Sau khi được
phân công giải quyết cuộc đình công Thẩm phán cần nhanh chóng triển khai thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định tại Điều 93 của
Pháp lệnh. Việc xác minh tại chỗ, tiến hành hoà giải giữa Ban chấp hành công
đoàn cơ sở và người sử dụng lao động về việc giải quyết cuộc đình công cần phải
được lập biên bản, có chữ ký của những người tham gia vào các công việc này. Thẩm
phán và Thư ký toà án phải ký vào biên bản và đóng dấu của toà án vào biên bản.
Nếu trong quá
trình giải quyết cuộc đình công, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm
phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm soát nhân dân xem xét khởi tố về hình sự đối
với người có hành vi phạm tội.
Trong thời hạn ba
ngày, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, văn bản yêu cầu, văn bản khởi tố, Thẩm
phán đựơc phân công giải quyết cuộc đình công phải ra quyết định đưa cuộc đình
công ra giải quyết hoặc quyết định đình chỉ việc giải quyết cuộc đình công.
Thẩm phán ra quyết
định đình chỉ việc giải quyết cuộc đình công khi có một trong các trường hợp
quy định tại Điều 95 của Pháp lệnh; cụ thể là: khi người
có yêu cầu rút yêu cầu; khi Viện kiểm sát rút văn bản khởi tố; khi Ban cấp hành
công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động thoả thuận được với nhau về việc giải
quyết cuộc đình công, trước khi Toà án ra quyết định giải quyết cuộc đình công.
c. Trong quá trình
giải quyết cuộc đình công, nếu xét thấy cần thiết, thì Thẩm phán đựơc phân công
giải quyết hoặc hội đồng giải quyết cuộc đình công chỉ có thể ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời "cấm hoặc buộc tập thể lao động, người sử dụng
lao đọng thực hiện một số hành vi nhất định". Ví dụ: cấm người sử dụng lao
động bán máy móc, thiết bị; cấm tập thể lao động khi đình công tụ tập ngoài địa
phận của doanh nghiệp v.v... Cần chú ý là trong Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời cần ghi rõ thời hạn có hiệu lực của quyết định. Quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay và có thể bị thay đổi hoặc huỷ bỏ
theo quy định tại Điều 45 của Pháp lệnh.
4. Về hội nghị hoà giải.
a. Hội nghị hòa giải
là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết cuộc đình công và có ý nghĩa,
vai trò quan trọng trong việc giải quyết cuộc đình công; do đó thẩm phán được
phân công giải quyết cuộc đình công phải chuẩn bị tốt chương trình, nội dung
cũng như về hình thức cho việc tiến hành hoà giải. Hội nghị hoà giải có thể được
tiến hành tại trụ sở của toà án hoặc tai doanh nghiệp nơi xảy ra đình công.
b. Theo quy định tại
Điều 98 của Pháp lệnh thì đại diện Ban chấp hành công đoàn
cơ sở, người sủ dụng lao động hay người đại diện hợp pháp của họ phải có mặt tại
hội nghị hoà giải. Nếu vắng mặt người đại diện Ban cháp hành công đoàn cơ sở hoặc
người sử dụng lao động hay người đại diện hợp pháp của họ thì Hội nghị hoà giải
phải được hoãn.
Đói với đại diện
Viện kiểm soát nhân dân, cơ quan lao động cấp tỉnh, Liên đoàn lao động cấp tỉnh,
thì có nhiệm vụ tham dự hội nghị hoà giải. Trong trưòng hợp cần thiết, Toà án
có thể mời các chuyên gia về lĩnh vực hữu quan làm tư vấn tại hội nghị hoà giải.
Nếu vắng mặt đại diện hoặc các chuyên gia được Toà án mời làm tư vấn hội nghị
hoà giải, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có thể hoãn hội nghị hoà giải hoặc
tiến hành hội nghị hoà giải.
c. Hội nghị hoà giải
phải được tiến hành theo trình tự và thủ tục theo quy định tại Điều
99 của Pháp lệnh.
Trong trường hợp
các bên tham gia không thương lượng, thoả thuận được với nhau về việc giải quyết
cuộc đình công tạo hội nghị hoà giải này, thì Thẩm phán lập biên bản hoà giải
không thành có chữ ký của Thẩm phán, Thư ký hội nghị hoà giải và các bên đương
sự. Đồng thời với việc lập biên bản hoà giải không thành, Thẩm phán cần ra quyết
định buộc người sử dụng lao động trong thời hạn ba ngày kể từ ngày lập biên bản
hoà giải khôngthành phải lập và đưa ra phương án mới về việc giải quyết cuộc
đình công. Sau khi có phương án mới, Thẩm phán tổ chức hội nghị hoà giải lại và
để cho các bên phải thương lượng với nhau về phương án đó. Nếu qua thương lượng
hai bên nhất trí với nhau về phương án mới đó, thì thẩm phán lập biên bản hoà
giải thành và ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên. Trong trưòng hợp
các bên không thoả thuận được với nhau về phương án mới đó, thì Thẩm phán giao
cho ban chấp hành công đoàn cơ sở tổ chức lấy ý kiến của tập thể lao dộng (những
người tham gia đình công) bằng phương pháp bỏ phiếu kín về phương án mới đó. Nếu
kết quả kiểm phiếu mà quá nửa tập thể lao động đồng ý với phương án mới do người
lao động đưa ra, thì thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các
bên về việc giải quyết cuộc đình công. Nếu kết quả kiểm phiếu mà quá nửa tập thể
tập thể lao động không đồng ý với phương án mới do người sử dụng lao động đưa
ra, thì Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp xét tính hợp pháp của đình công.
Trong mọi trường hợp,
trước khi ra quyết định mở phiên họp xét tính hợp pháp của cuộc đình công, Thẩm
phán phải báo cáo với Chánh toà Toà lao động để chỉ định thêm hai Thẩm phán
tham gia Hội đồng giải quyết cuộc đình công.
5. Về phiên họp của hội đồng giải quyết cuộc đình công.
a. Phiên họp của Hội
đồng giải quyết cuộc đình công phải mở trong thời gian ba ngày, kể từ ngày ra
quyết định mở phiên họp và có đủ thành phần những ngưòi tham gia phiên họp theo
quy định tại Điều 100 của Pháp lệnh. Trường hợp vắng mặt đại
diện viện kiểm sát nhân dân hoặc Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc người sử dụng
lao động (hay đại diện hợp pháp của họ) thì phải hoãn phiên họp; thời hạn hoãn
không quá ba ngày (áp dụng theo quy định tại điểm 2 khoản 3 Điều
98 của Pháp lệnh).
b. Trình tự phiên
họp xét tính hợp pháp của cuộc đình công phải tuân theo quy định tại Điều 101
cuả Pháp lệnh. Hội đồng thảo luận và quyết định giải quyết cuộc đình công theo
quy định về nghị án được quy định tại khoản 1 Điều 54 của Pháp
lệnh. Nếu cuộc đình công là hợp pháp, trong quyết định phải ghi rõ chấp nhận
yêu cầu của tập thể lao động, buộc người sử dụng lao động trả đủ tiền lương và
bảo đảm các quyền lợi khác của tập thể lao động trong thời gian đình công theo
quy định của pháp luật. Việc giải quyết tiền lương và những quyền lợi khác cho tập
thể người lao động trong trường hợp cuộc đình công do Toà án tuyên bố là bất hợp
pháp theo đúng quy định của Chính phủ (Toà án nhân dân tối cao sẽ có văn bản hướng
dẫn riêng về vấn đề này).
6.
Về căn cứ để xem xét các cuộc đình công hợp pháp hoặc bất hợp pháp.
a. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 80 của Pháp lệnh thì cuộc đình công khi có đủ
các điều kiện sau đây được công nhận là hợp pháp.
- Phát sinh từ
tranh chấp lao động tập thể và trong phạm vi quan hệ lao động;
- Được những người
lao động làm việc tại một doanh nghiệp tiến hành trong phạm vi doanh nghiệp đó;
- Tập thể lao động
không đồng ý với quyết định của Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh mà không
khởi kiện để yêu cầu toà án giải quyết;
- Tuân theo quy định
tại các khoản 1 và 2 Điều 173 của Bộ luật Lao động;
- Doanh nghiệp nơi
tập thể lao động tiến hành đình công không thuộc danh mục doanh nghiệp phục vụ
công cộng và doanh nghiệp thiết yếu cho nền kinh tế quốc dân hoặc an ninh, quốc
phòng do Chính phủ quy định;
- Không vi phạm
quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc hoãn hoặc ngừng cuộc đình công;
b. Theo quy định tại
khoản 2 Điều 80 của Pháp lệnh, thì cuộc đình công thiếu một
trong các điều kiện trên đây là bất hợp pháp.
c. Cần lưu ý trong
trường hợp tuyên bố cuộc đình công bất hợp pháp do không tuân theo các quy định
tại Khoản 2 Điều 173 của Bộ luật lao động (điểm
d khoản 1 Điều 80 của Pháp lệnh), thì Toà án cần giải thích cho tập thể lao
động biết họ vẫn có quyền tiến hành đình công lại sau khi đã tuân thủ đầy đủ
các quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật lao động.
7.
Về việc giải quyết đơn khiếu nại đối với quyết định giải quyết đình công.
Khi có khiếu nại đối
với quyết định của Toà lao động Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao có thẩm quyền (theo lãnh thổ) phải tién hành giải quyết ngay
theo đúng thành phần Hội đồng và đúng thời hạn 5 ngày theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Pháp lệnh. Quyết định của Toà phúc thẩm
Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng; do đó, khi giải quyết khiếu nại,
các Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao cần xem xét thận trọng, kỹ càng các
quyết định của Toà Lao động Toà án nhân dân cấp tỉnh có khiếu nại để quyết định
chính xác, đúng pháp luật.
Trong quá trình thực
hiện, nếu có gì vướng mắc, các Toà án nhân dân các cấp báo cáo về Toà án nhân
dân tối cao để có hướng dẫn bổ sung kịp thời.