BỘ
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 228/BKHCN-TĐC
V/v kiểm điểm tình hình thực hiện Đề án TBT
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 01 năm 2007
|
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Ngày 26 tháng 5 năm 2005 Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định 444/QĐ-TTg phê duyệt Đề án triển khai thực hiện
Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại của WTO (gọi tắt là Đề án TBT) và
Quyết định 114/2004/QĐ-TTg ngày 26/5/2005 về việc thành lập và ban hành Quy chế
tổ chức và hoạt động của mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp của Việt
Nam về TBT. Thực hiện Điều 5 của Quyết định này, Bộ Khoa học
và Công nghệ (KH&CN) xin báo cáo tình hình thực hiện Đề án TBT và hoạt động
của mạng lưới TBT trong thời gian qua như sau:
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
1. Tuyên truyền, phổ biến về Hiệp
định TBT và Đề án TBT
Để triển khai 2 Quyết định nói
trên, trong sáu tháng cuối năm 2005, Bộ KH&CN đã tổ chức họp báo giới thiệu
nội dung và kế hoạch triển khai 2 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời
đã phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam (VTV2) tổ chức tọa đàm giới thiệu Hiệp
định TBT, Đề án TBT và công tác chuẩn bị của Việt Nam thực thi Hiệp định này
trước khi gia nhập WTO.
Bên cạnh đó, Bộ KH&CN đã chỉ
đạo Tổng cục TCĐLCL, Văn phòng TBT Việt Nam tổ chức tập huấn về Hiệp định TBT,
các cơ hội, thách thức và các biện pháp vượt qua thách thức khi thực thi Hiệp định
này ở Việt Nam, sự cần thiết phải tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và
địa phương để đáp ứng các nghĩa vụ của Hiệp định TBT.
Kể từ tháng 5 năm 2005 đến nay
hàng chục hội nghị phổ biến, tập huấn về Hiệp định TBT đã được tổ chức trong cả
nước với sự tham gia của các đại diện cơ quan quản lý và các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau, giúp nâng cao đáng kể nhận thức của các cơ
quan, doanh nghiệp về WTO nói chung và vấn đề TBT nói riêng để có những biện
pháp phù hợp tận dụng cơ hội và đối phó với các thách thức của việc thực thi
cam kết gia nhập WTO trong đó có cam kết thực thi Hiệp định TBT. Công việc này
sẽ tiếp tục là công tác trọng tâm trong thời gian tới.
2. Rà soát văn bản pháp quy kỹ
thuật, quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định
WTO/TBT
Để triển khai công việc này, Bộ
KH&CN đã có công văn số 1702/BKHCN-TĐC ngày 05 tháng 7 năm 2005, hướng dẫn
tiêu chí rà soát văn bản pháp quy kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật của các Bộ,
ngành và địa phương có liên quan.
Kết quả rà soát sơ bộ cho thấy,
đa số các văn bản pháp quy kỹ thuật do các Bộ, ngành và địa phương ban hành
không vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử và cản trở thương mại quá mức cần
thiết của Hiệp định TBT của WTO. Riêng nguyên tắc minh bạch hoá, do có những
khác biệt trong pháp luật Việt Nam (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật) với
quy định của Hiệp định TBT và quyết định, khuyến nghị của Ủy ban TBT và Hội nghị
Bộ trưởng WTO về thời gian thông báo dự thảo văn bản pháp quy kỹ thuật, quy chuẩn
kỹ thuật và thời hạn hiệu lực của văn bản pháp quy kỹ thuật, vì vậy các văn bản
của các Bộ và địa phương mới chỉ đáp ứng yêu cầu minh bạch của pháp luật Việt
Nam mà chưa đáp ứng yêu cầu minh bạch của WTO.
Ngày 29/06/2006 Quốc hội đã
thông qua Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (TC&QCKT) có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2007. Luật này đảm bảo sự tương thích của pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật với các nguyên tắc cơ bản của
Hiệp định TBT của WTO, tạo ra khung pháp lý quan trọng trong việc thực thi Hiệp
định này ở nước ta khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Hiện nay, Bộ
KH&CN đang phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng dự thảo Nghị định
của Chính phủ cũng như các văn bản cấp bộ hướng dẫn thi hành Luật này, đảm bảo
Luật có thể đi vào cuộc sống kể từ thời điểm Luật có hiệu lực.
Trên cơ sở thực thi Luật
TC&QCKT, các văn bản pháp quy kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật cũng như các quy
trình đánh giá hợp quy sẽ được xây dựng đảm bảo tính công khai và minh bạch như
Hiệp định TBT yêu cầu.
3. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn
của Việt Nam
Công việc này đã được chuẩn bị
trong năm 2005 và được triển khai từ năm 2006. Theo Luật TC&QCKT kể từ ngày
01/01/2007, hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam sẽ bao gồm hai cấp thay cho ba cấp
như hiện nay: tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) và tiêu chuẩn cơ sở (TCCS); cấp tiêu
chuẩn ngành (TCN) sẽ không tồn tại.
Hiện nay, 5000 tiêu chuẩn quốc
gia (TCVN) đang được rà soát nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tiêu chuẩn,
chất lượng và của sản xuất kinh doanh; đồng thời hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế.
Sau khi rà soát, các tiêu chuẩn không cần thiết sẽ được loại bỏ, các tiêu chuẩn
lạc hậu với trình độ khoa học và kỹ thuật sẽ được sửa đổi theo hướng hài hòa với
tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn mới cũng được đề xuất xây dựng
nhằm phục vụ mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý tốt các công trình quốc gia và
nhu cầu ngày càng tăng về chất lượng, an toàn vệ sinh và bảo vệ môi trường đối
với sản phẩm hàng hóa lưu thông trong nước.
Đối với việc chuyển đổi tiêu chuẩn
ngành (TCN), Bộ KH&CN đang phối hợp với các Bộ quản lý chuyên ngành để ban
hành trong Quý I/2007 các Thông tư hướng dẫn thực hiện việc chuyển đổi theo
đúng quy định của Luật TC&QCKT, trong đó các tiêu chuẩn ngành đáp ứng yêu cầu
quản lý nhà nước liên quan đến an toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người, bảo vệ động
thực vật, môi trường, bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng đối
với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ sẽ được chuyển thành quy chuẩn kỹ thuật; các
tiêu chuẩn ngành nhằm mục tiêu thúc đẩy thương mại và đáp ứng yêu cầu của tiêu
chuẩn quốc gia sẽ chuyển thành tiêu chuẩn quốc gia; và các tiêu chuẩn ngành còn
lại sẽ huỷ bỏ.
Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công
nghệ và các Bộ, ngành có liên quan sẽ hướng dẫn các doanh nghiệp tăng cường hoạt
động tiêu chuẩn hóa, chú trọng xây dựng tiêu chuẩn cơ sở (tiêu chuẩn doanh nghiệp)
và áp dụng tiêu chuẩn, kể cả tiêu chuẩn quốc gia, nước ngoài, khu vực và quốc tế,
đẩy mạnh công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng,
năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
4. Việc tăng cường hoạt động
đánh giá sự phù hợp phục vụ tốt yêu cầu quản lý nhà nước và thúc đẩy thương mại
Căn cứ vào nhiệm vụ đề ra trong
Đề án TBT, hiện nay Đề án tăng cường hoạt động đánh giá sự phù hợp và Phương án
kiểm soát và ngăn chặn hàng kém chất lượng nhập khẩu vào Việt Nam đang được Bộ
KH&CN khẩn trương soạn thảo và lấy ý kiến của các Bộ quản lý chuyên ngành.
Việc soạn thảo đề án và phương án này chậm so với yêu cầu đề ra trong Đề án, do
phải tiến hành đánh giá, khảo sát để làm căn cứ cho việc đưa ra phương án thích
hợp; đồng thời cần đạt được sự đồng thuận của các Bộ hữu quan. Dự kiến các văn
bản sẽ được Bộ KH&CN trình Thủ tướng Chính phủ chậm nhất trong quý I/2007.
Để quản lý tốt hơn chất lượng
thiết bị điện, điện tử ở nước ta cũng như trong khuôn khổ hợp tác của ASEAN về
tiêu chuẩn chất lượng, Bộ KH&CN đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tham gia Hiệp định của ASEAN về Quy chế quản lý hài hòa các thiết bị điện,
điện tử. Điều này sẽ thúc đẩy thương mại đối với các sản phẩm này của Việt Nam
với các nước trong khu vực.
Ngoài ra, các Bộ có liên quan
đang nghiên cứu khả năng đàm phán và ký kết với các nước thành viên WTO các Hiệp
định hoặc Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa, sau
khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.
5. Thành lập và hoạt động của
Ban liên ngành về TBT
Trên cơ sở Quyết định số
444/QĐ-TT, Bộ KH&CN đã ban hành Quyết định số 2788/QĐ-BKHCN ngày 3 tháng 11
năm 2005 về thành viên Ban liên ngành về TBT. Theo Quyết định này Ban liên
ngành về TBT bao gồm 19 thành viên là đại diện của các Bộ, cơ quan ngang Bộ có
liên quan. Đồng thời, Bộ KH&CN cũng đã ban hành Quyết định số
07/2006/QĐ-BKHCN ngày 20/3/2006 về Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban liên
ngành về TBT, làm căn cứ cho hoạt động của Ban này đáp ứng chức năng, nhiệm vụ
Thủ tướng Chính phủ giao trong Quyết định 444/QĐ-TTg.
Trong thời gian qua, với chức
năng tham mưu, tư vấn và tăng cường sự phối hợp liên tịch để thực thi Hiệp định
TBT ở Việt Nam, Ban liên ngành về TBT đã tập trung vào các hoạt động sau:
- Tổ chức hội nghị tập huấn nhằm
nâng cao nhận thức về Hiệp định TBT, chức năng, nhiệm vụ và các nhiệm vụ cần
triển khai trong năm 2006 đối với các thành viên của Ban liên ngành và Mạng lưới
cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp về TBT (gọi tắt là mạng lưới TBT), chuẩn bị
đáp ứng các nghĩa vụ thực thi Hiệp định TBT kể từ thời điểm gia nhập WTO;
- Hỗ trợ thành lập và hướng dẫn
hoạt động cho các Điểm TBT và Mạng lưới TBT của Bộ và địa phương;
- Tham dự hội nghị của Ủy ban
TBT của WTO với tư cách quan sát viên nhằm nắm bắt các diễn biến và xu hướng của
diễn đàn này, chuẩn bị cho việc tham dự chính thức của Việt Nam sau này có hiệu
quả;
- Tham gia xây dựng chương trình
thực hiện Đề án 444 về TBT cho năm 2006 và giai đoạn 2006-2010;
- Tham gia góp ý dự thảo đề án hệ
thống tiêu chuẩn và các công cụ quản lý hàng hóa theo cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế, dự thảo Quy định về quy trình thông báo và hỏi đáp của Mạng lưới cơ
quan Thông báo và Điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại,
dự thảo Thông tư hướng dẫn về phí đối với hoạt động hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật
trong thương mại; phương án xây dựng cổng thông tin về TBT…
6. Thành lập và hoạt động của Mạng
lưới cơ quan thông báo và hỏi đáp về TBT (Mạng lưới TBT)
Căn cứ vào Quyết định số
114/2005/QĐ-TTg ngày 26/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH&CN đã có công
văn số 2374/BKHCN-TĐC ngày 13 tháng 9 năm 2005 gửi các Bộ có liên quan và các Sở
KH&CN hướng dẫn việc thành lập đầu mối TBT tại các Bộ có liên quan và địa
phương. Kết quả đến thời điểm hiện nay Điểm TBT đã được hình thành ở tất cả các
Bộ nêu trong Quyết định số 114/2005/QĐ-TTg ngày 26/05/2005 của Thủ tướng Chính
phủ và 60 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong số 60 tỉnh thành phố đã thành lập
điểm TBT thì có 3/4 được thành lập bởi quyết định của Ủy ban nhân dân, số còn lại
là của Sở Khoa học và Công nghệ.
Bộ KH&CN đã ban hành “Quy định
về quy trình thông báo và hỏi đáp của mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi
đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại” kèm theo Quyết định số
09/2006/QĐ-BKHCN ngày 04/05/2006. Quy định này là căn cứ để các Điểm TBT thuộc
mạng lưới TBT thực hiện nghĩa vụ thông báo và hỏi đáp theo quy định của Hiệp định
TBT.
Nhiều Bộ và Ủy ban nhân dân đã
quan tâm bố trí biên chế và kinh phí hoạt động giúp cho hoạt động của các Điểm
TBT được thuận lợi.
Trong thời gian qua các Điểm TBT
đã tập trung vào các hoạt động chính sau:
- Xây dựng đề án hoạt động hoặc điều
lệ tổ chức hoạt động của Điểm TBT trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Tham gia xây dựng dự toán kinh
phí hoạt động TBT của địa phương, trong đó có hoạt động của Điểm TBT, trong năm
2006 và giai đoạn 2006-2010.
- Tham gia rà soát văn bản quy
phạm pháp luật, các quy chuẩn kỹ thuật, quy trình đánh giá phù hợp do Bộ hoặc địa
phương ban hành theo các quy định của Luật tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật và
Hiệp định TBT, trên cơ sở đề xuất sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
- Ổn định tổ chức và cơ sở vật
chất kỹ thuật để sớm đi vào hoạt động, bao gồm việc xây dựng hoặc hoàn thiện
trang web, xây dựng cơ sở dữ liệu, nghiên cứu nghiệp vụ thông báo và hỏi đáp về
TBT, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học…);
- Bước đầu thực hiện việc hỏi
đáp về TBT từ các cơ quan, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài;
- Tham gia nghiên cứu các biện
pháp TBT phù hợp với các nguyên tắc của Hiệp định TBT.
- Một số địa phương (Đồng Nai,
Bình Phước, Bình Dương…) đã thành lập ban liên ngành về TBT của địa phương với
sự tham gia của các sở, ban ngành có liên quan nhằm phối hợp và đẩy mạnh hoạt động
TBT của địa phương.
Một số Điểm TBT của các Bộ, địa
phương (Bộ GTVT, Bộ BCVT, Bắc Giang, Đồng Nai…) đã bước đầu đi vào hoạt động,
cung cấp thông tin về TBT và trả lời các câu hỏi của các cơ quan, doanh nghiệp.
Tuy nhiên, tình trạng chung nhiều Điểm TBT còn lúng túng trong hoạt động.
Nguyên nhân là do một phần vấn đề TBT cũng như các vấn đề WTO khác vẫn còn khá
mới, chủ yếu là vừa nghiên cứu vừa thực hành, cán bộ trẻ nhiệt tình song hiểu
biết, kinh nghiệm còn hạn chế. Đặc biệt ở một số địa phương (Hà Nội, Tp. Hồ Chí
Minh…) hoạt động của các Điểm TBT gặp khó khăn do chưa đủ căn cứ pháp lý để được
phân bổ kinh phí hoạt động.
7. Xây dựng Chương trình hành động
thực hiện Đề án TBT và dự toán kinh phí tổng thể thực hiện Đề án
Để có căn cứ thực hiện thống nhất
và đồng bộ Đề án TBT, Bộ KH&CN đã phối hợp với các Bộ hữu quan và các địa
phương xây dựng Chương trình hành động thực hiện Đề án TBT. Chương trình đang
được hoàn thiện trên cơ sở ý kiến góp ý của các Bộ và địa phương và sẽ được gửi
Thủ tướng Chính phủ để báo cáo và chỉ đạo.
Căn cứ Điều 3 của
Quyết định 444/QĐ-TTg, Bộ KH&CN đã phối hợp với các Bộ Tài chính, Kế hoạch
và Đầu tư hướng dẫn các Bộ và địa phương xây dựng dự toán kinh phí tổng thể
2005-2010 và năm 2005, 2006 để thực hiện Đề án. Theo đó các Bộ và địa phương
phê duyệt nhiệm vụ hàng năm thực hiện Đề án và Bộ KH&CN, Bộ Tài chính cân đối
kinh phí thực hiện các nhiệm vụ này trong kinh phí hoạt động KH&CN cho các
Bộ và địa phương.
Để hướng dẫn thực hiện các nhiệm
vụ và nội dung chi cho các nhiệm vụ này, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành
Quy định về việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ thuộc Đề án triển khai thực hiện
Hiệp định Hàng rào kỹ thuật trong thương mại giai đoạn 2006-2010 kèm theo Quyết
định số 16/2006/QĐ-BKHCN ngày 23/08/2006 và Quy định về nội dung chi thực hiện
Đề án TBT kèm theo Quyết định số 25/2006/QĐ-BKHCN ngày 04/12/2006.
Bộ KH&CN tích cực phối hợp với
Bộ Tài chính nghiên cứu xây dựng thông tư hướng dẫn hình thức, mức phí, trình tự
thu, nộp và quản lý phí đối với hoạt động hỏi đáp về TBT theo quy định của Điều 5 tại Quyết định 444/QĐ-TTg ngày 26 tháng 5 năm 2006. Tuy
nhiên, việc xây dựng thông tư này gặp khó khăn như từ trước đến nay chưa có quy
định về hình thức cũng như mức phí đối với hoạt động tương tự ở Việt Nam; mặt
khác qua tìm hiểu một số nước thành viên WTO như Trung Quốc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ…
không thu phí cho hoạt động này. Vì vậy, đề nghị Thủ tướng Chính phủ trước mắt
cho phép chưa ban hành thông tư hướng dẫn về phí hỏi đáp TBT để các điểm TBT thực
hiện việc hỏi đáp chủ yếu miễn phí; đồng thời trong trường hợp việc cung cấp
thông tin vượt quá khuôn khổ nghĩa vụ của Thành viên WTO (ví dụ như phải dịch
tài liệu theo yêu cầu của bên đề nghị khi tài liệu chưa có sẵn bằng tiếng nước
ngoài hoặc phải tự nghiên cứu, soạn thảo tài liệu để gửi cho bên đề nghị…), điểm
TBT sẽ thực hiện việc cung cấp dịch vụ trên cơ sở thỏa thuận đôi bên, phù hợp với
quy định pháp luật về vấn đề này.
8. Tổ chức hội nghị kiểm điểm
tình hình thực hiện Đề án TBT
Để kiểm điểm tình hình thực hiện
Đề án TBT, Bộ KH&CN đã tổ chức hội nghị với sự tham gia của đại diện các Bộ,
ngành, doanh nghiệp Ban Liên ngành TBT và Mạng lưới TBT. Tại hội nghị các đại
biểu đã nghe Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự phổ biến về các cam kết gia
nhập WTO nói chung và thực thi Hiệp định TBT, Hiệp định SPS; Lãnh đạo Tổng cục
TCĐLCL trình bày báo cáo thực hiện Đề án TBT trong thời gian qua và kế hoạch triển
khai thực hiện Đề án trong năm 2007. Đặc biệt các đại biểu tập trung thảo luận
về những mặt được và chưa được trong triển khai Đề án; đồng thời đề xuất nhiều
biện pháp nhằm thực thi Đề án một cách có hiệu quả trong thời gian tới.
9. Đánh giá nhận xét tình hình
thực hiện Đề án TBT trong thời gian qua
Hai Quyết định của Thủ tướng về
TBT được các Bộ, địa phương nghiêm túc thực hiện. Điều này không chỉ hỗ trợ việc
đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam nói chung mà còn tạo tiền đề cho việc thực
thi Hiệp định TBT ở nước ta một cách đầy đủ sau khi gia nhập WTO.
Bộ KH&CN đã tích cực phối hợp
với các Bộ và địa phương tổ chức, hướng dẫn đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ của
Đề án TBT.
Các Bộ và địa phương đã chủ động
phối hợp với Bộ KH&CN trong việc triển khai các nhiệm vụ của Đề án.
Nhận thức của các cơ quan, doanh
nghiệp về cơ hội và thách thức trong thực thi Hiệp định TBT đã được nâng cao một
bước, tuy nhiên so với nhu cầu vẫn còn hạn chế.
Việc chuẩn bị thực thi cam kết về
minh bạch hóa đối với Hiệp định TBT đã được tiến hành có bài bản, thông qua việc
hình thành mạng lưới TBT, việc ban hành các quy định về quy trình, thủ tục và tập
huấn nghiệp vụ.
Ban liên ngành về TBT đã bước đầu
đi vào hoạt động, chuẩn bị điều kiện để có thể tham mưu tư vấn thực thi toàn bộ
nghĩa vụ của Hiệp định TBT trong thời gian tới.
Một số hạn chế trong thực hiện Đề
án TBT bao gồm:
- Nhiệm vụ xây dựng một số đề án
liên quan đến hoạt động đánh giá sự phù hợp tiến hành chậm do việc phối hợp giữa
các cơ quan chưa tốt.
- Việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch kinh phí thực hiện các nhiệm vụ triển khai tích cực song còn lúng túng,
vì tính chất công việc mới, chưa có sẵn các hướng dẫn tương tự. Do đó, một số
đơn vị mặc dù có kinh phí song thụ động chờ hướng dẫn các nội dung chi và các mức
chi, nên không giải ngân được hoặc chỉ được một phần kế hoạch được duyệt. Trong
khi đó một số đơn vị không được bố trí kinh phí thực hiện do còn vướng mắc về tổ
chức hoạt động và phê duyệt nhiệm vụ;
- Việc thành lập Điểm TBT ở một
số ít địa phương còn gặp khó khăn do việc phối hợp chưa tốt giữa các cơ quan chức
năng;
- Nhiều Điểm TBT còn lúng túng
trong triển khai hoạt động tác nghiệp cụ thể do chưa có nhiều yêu cầu từ các
bên có liên quan cả trong nước và nước ngoài;
- Năng lực cán bộ còn hạn chế về
nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học.
II. CÁC CÔNG VIỆC TRỌNG TÂM
TRONG NĂM 2007
1. Bộ KH&CN phê duyệt Chương
trình hành động thực hiện Đề án TBT và trình Thủ tướng Chính phủ các đề án về
hoạt động đánh giá sự phù hợp.
2. Các Bộ, địa phương cụ thể hóa
các nhiệm vụ thuộc Chương trình hành động nêu trên, phê duyệt các nội dung kế
hoạch cụ thể và tổ chức triển khai các nhiệm vụ kế hoạch được duyệt.
3. Việc xây dựng kế hoạch hàng
năm đối với các nhiệm vụ thuộc Đề án cần được tiến hành sớm, phù hợp với tiến độ
xây dựng kế hoạch hoạt động khoa học và công nghệ hàng năm. Việc ghi kế hoạch
kinh phí cho các nhiệm vụ thuộc Đề án cần được tách bạch làm cơ sở cho việc
giao và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch kinh phí được thuận lợi.
4. Việc triển khai các nhiệm vụ
thuộc Đề án TBT cần được triển khai đồng bộ với việc thi hành Luật Tiêu chuẩn
và Quy chuẩn kỹ thuật; đặc biệt nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc
gia và chuyển đổi tiêu chuẩn ngành cần được tiến hành một cách đồng bộ với kế
hoạch xây dựng tiêu chuẩn và áp dụng tiêu chuẩn quốc gia hàng năm.
5. Tiếp tục tuyên truyền, tập huấn
về TBT và các cam kết gia nhập WTO có liên quan cho các cơ quan, doanh nghiệp.
6. Ban liên ngành về TBT tập
trung vào các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các quy định và hướng
dẫn của WTO về TBT, đề xuất chương trình, kế hoạch triển khai ở Việt Nam.
- Đề xuất các chương trình và biện
pháp hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về kỹ thuật; quy chuẩn kỹ
thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp của Việt Nam đảm bảo tương
thích với các quy định và hướng dẫn của WTO về TBT.
- Nghiên cứu quy trình, thủ tục
giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến TBT, chủ động xử lý các tranh chấp
này, nếu có;
- Đề xuất và thực hiện các biện
pháp tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành trong việc triển khai chương trình,
kế hoạch về TBT; hỗ trợ các cơ quan, tổ chức có liên quan ở địa phương trong thực
thi các nhiệm vụ về TBT.
7. Mạng lưới TBT cần nhanh chóng
tìm hiểu và nắm vững nghiệp vụ thông báo và hỏi đáp đảm bảo thực hiện tốt nghĩa
vụ minh bạch hoá ngay từ thời điểm Việt Nam phải thực thi cam kết gia nhập WTO.
Bộ Khoa học và Công nghệ xin báo
cáo và kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo.
Nơi nhận:
- Như trên;
- PTT Phạm Gia Khiêm;
- Ủy ban QGHTKTQT;
- VPCP, các Bộ có liên quan;
- UBND, Sở KH&CN các tỉnh, TP;
- Lưu VT, TĐC.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Trần Quốc Thắng
|