Công văn 2129/BTTTT-ƯDCNTT báo cáo tình hình thực hiện Chỉ thị 34/2008/CT-TTg do Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành
Số hiệu | 2129/BTTTT-ƯDCNTT |
Ngày ban hành | 14/08/2012 |
Ngày có hiệu lực | 14/08/2012 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Thông tin và Truyền thông |
Người ký | Nguyễn Bắc Son |
Lĩnh vực | Công nghệ thông tin,Bộ máy hành chính |
BỘ THÔNG TIN VÀ
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2129/BTTTT-ƯDCNTT |
Hà Nội, ngày 14 tháng 08 năm 2012 |
Kính gửi: Thủ tướng chính phủ
Ngày 03/12/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg về việc tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Thông tin và Truyền thông hàng năm xây dựng Báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện Chỉ thị. Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng Báo cáo tình hình thực hiện Chỉ thị đến hết năm 2011 (xin trình kèm theo).
Bộ Thông tin và Truyền thông kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, có ý kiến chỉ đạo./
Nơi nhận: |
BỘ TRƯỞNG |
BÁO CÁO
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
CHỈ THỊ SỐ 34/2008/CT-TTg NGÀY 03/12/2008 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ VIỆC TĂNG
CƯỜNG SỬ DỤNG HỆ THỐNG THƯ ĐIỆN TỬ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
(Ban hành kèm theo Công văn số 2129/BTTTT-ƯDCNTT ngày 14/8/2012 của Bộ Thông
tin và Truyền thông)
Ngày 03/12/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg về việc tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước (gọi tắt là Chỉ thị). Chỉ thị có tác động thúc đẩy các cơ quan nhà nước tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử hướng tới nâng cao năng suất lao động, thực hành tiết kiệm, tạo môi trường làm việc điện tử rộng khắp giữa các cơ quan nhà nước. Thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Thông tin và Truyền thông hàng năm tổ chức đánh giá, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện Chỉ thị. Ngày 18/4/2011, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Báo cáo số 22/BC-BTTTT báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện Chỉ thị đến hết năm 2010. Ngày 30/9/2011, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Công văn số 2971/BTTTT-ƯDCNTT gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị đánh giá tình hình ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) của cơ quan nhà nước năm 2011 trong đó có nội dung sử dụng hệ thống thư điện tử. Căn cứ báo cáo nhận được từ 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông tổng hợp và báo cáo tình hình thực hiện Chỉ thị đến năm 2011 như sau:
I. Đánh giá chung về hiện trạng ứng dụng hệ thống thư điện tử trong các cơ quan nhà nước
1. Về các điều kiện bảo đảm triển khai hệ thống thư điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước
a. Về hạ tầng kỹ thuật
Hạ tầng kỹ thuật CNTT trong các cơ quan nhà nước ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện cho việc triển khai các ứng dụng CNTT nói chung và hệ thống thư điện tử nói riêng. Cụ thể, tỷ lệ cán bộ, công chức được trang bị máy tính phục vụ công việc ngày càng tăng. Tính đến hết năm 2011, trung bình có trên 90% cán bộ, công chức đến cấp đơn vị trực thuộc ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã được trang bị máy tính phục vụ công việc, tỷ lệ này đối với các địa phương (đến cấp sở, ban, ngành, quận, huyện) là khoảng 68%. Ngoài ra, các Bộ, ngành, địa phương cũng đã chú trọng đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống mạng nội bộ (LAN), mạng diện rộng (WAN), kết nối Internet tại cơ quan, đơn vị. Với cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện có, các Bộ, ngành, địa phương đã phát triển hệ thống thư điện tử của mình. Tỷ lệ các cơ quan đã triển khai hệ thống thư điện tử chính thức (.gov.vn) phục vụ công việc khá cao, năm 2011:
- 100% các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã triển khai hệ thống thư điện tử chính thức phục vụ công việc (trừ Bộ Quốc phòng, Bộ Công an do điều kiện đặc thù nên không công bố số liệu).
- 94% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng hệ thống thư điện tử chính thức của cơ quan mình (chỉ còn 04 tỉnh chưa xây dựng hệ thống thư điện tử chính thức là: Hà Giang, Đắk Nông, Quảng Nam, Sóc Trăng).
Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng hệ thống thư điện tử chính thức, thì hệ thống này đã được triển khai tới 85% đơn vị trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, tới 98% Văn phòng UBND các tỉnh, thành phố và 91% các sở, ban, ngành, quận, huyện. Phần mềm thư điện tử chủ yếu sử dụng là MS Exchange 2007, 2010 (52,6% các Bộ, cơ quan ngang Bộ, 52% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo sử dụng), còn lại sử dụng các phần mềm thư điện tử như MDaemon mail Server, Qmail, TDOffice.
Mặc dù hạ tầng kỹ thuật CNTT đã được cải thiện, tuy nhiên tại một số đơn vị đã triển khai, trong quá trình vận hành hệ thống thư điện tử vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn như chất lượng kết nối Internet băng rộng không ổn định (mất tín hiệu, chậm), nhiều đơn vị chưa kết nối mạng diện rộng WAN, các mạng cục bộ (LAN), máy tính của các cán bộ, công chức lạc hậu, cấu hình thấp. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng thư điện tử trong công việc hàng ngày.
Tại các cơ quan đã triển khai hệ thống thư điện tử, tỷ lệ cán bộ, công chức được cung cấp hộp thư điện tử sử dụng trong công việc ngày càng cao, cụ thể:
- Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ (đến cấp đơn vị trực thuộc) đạt tỷ lệ trung bình khoảng 93%;
- Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (đến cấp sở, ban, ngành, quận, huyện) đạt tỷ lệ trung bình trên 80%.
Một số cơ quan tiêu biểu, cung cấp hộp thư điện tử cho 100% cán bộ, công chức như các Bộ: Xây dựng, Công Thương, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Ngoại giao, Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Thông tin và Truyền thông, Ủy ban Dân tộc, Thanh tra Chính phủ; các tỉnh như: Tây Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình, Ninh Thuận, Nam Định, Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế, Đồng Nai. Tuy nhiên, tại một số địa phương, hệ thống thư điện tử mới được triển khai tại UBND tỉnh, thành phố, chưa triển khai tới các sở, ban, ngành, quận, huyện (như tại Ninh Bình, Lai Châu, Cao Bằng), số lượng cán bộ, công chức được cấp hộp thư điện tử chính thức còn hạn chế (như tại Lai Châu là 2%, Gia Lai là 15%, Phú Yên là 13,8%).
Song song với việc phát triển các hệ thống thư điện tử, một số cơ quan đã bắt đầu chú trọng đến công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin cho hệ thống thư điện tử. Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, 88% số máy tính được trang bị phần mềm diệt virut, 100% các cơ quan đã trang bị phần mềm quét lọc thư rác cho hệ thống thư điện tử. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 72% số máy tính được trang bị phần mềm diệt virut, 64,4% các cơ quan đã trang bị phần mềm quét lọc thư rác cho hệ thống thư điện tử. Ngoài ra, nhiều cơ quan nhà nước đã ban hành các văn bản quy định về bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, cụ thể, đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ đạt tỷ lệ 77%, đối với tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt tỷ lệ 54%.
Mặc dù công tác bảo đảm an toàn, an ninh tại các Bộ, ngành, địa phương đã được quan tâm đầu tư hơn, nhưng tại một số cơ quan vấn đề an toàn, an ninh vẫn chưa được đảm bảo. Trong số các tỉnh, thành phố đã triển khai hệ thống thư điện tử vẫn còn 35,6% hệ thống thư điện tử chưa được trang bị phần mềm quét lọc thư rác, 64,6% tổng số mạng cục bộ (LAN) chưa được bảo vệ bởi bất kỳ hệ thống phát hiện và phòng chống truy cập trái phép nào. Tỷ lệ máy tính được trang bị phần mềm diệt virut như đã nói ở trên ngày càng cao nhưng phần lớn là những phần mềm miễn phí, không có bản quyền, chưa được cài đặt đồng bộ trên toàn cơ quan, khả năng phòng chống virut, bảo mật không cao. Các phần mềm diệt vi rút thường được sử dụng là phần mềm của các hãng BKAV, Kaspersky, AVG. Việc sử dụng chữ ký số trong gửi nhận văn bản điện tử tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn rất hạn chế, khoảng 90% các tỉnh, thành phố chưa sử dụng. Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin được quan tâm hơn, tuy nhiên cũng như tại các địa phương, việc trang bị đồng bộ phần mềm diệt vi rút có bản quyền còn hạn chế, phần lớn các Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa ứng dụng chữ ký số trong gửi nhận văn bản điện tử. Bên cạnh đó, nhiều Bộ, ngành, địa phương vẫn chưa ban hành các văn bản quy định về an toàn, an ninh thông tin. Cụ thể, 23% các Bộ, cơ quan ngang Bộ, 46% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa ban hành văn bản bảo đảm an toàn, an ninh thông tin.
Tỷ lệ cán bộ, công chức sử dụng thành thạo hệ thống thư điện tử trong công việc ngày càng cao. Nhiều cán bộ chuyên trách CNTT được đào tạo đáp ứng nhu cầu công việc, phần lớn các cán bộ chuyên trách CNTT có trình độ về CNTT từ cao đẳng, đại học trở lên (đối với các Bộ đạt tỷ lệ trên 90%, đối với các tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ trên 70%).
Tuy nhiên, nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT nói chung và ứng dụng hệ thống thư điện tử nói riêng vẫn còn hạn chế, tỷ lệ cán bộ chuyên trách về CNTT tại các cơ quan nhà nước còn thấp. 63,7% các Bộ, cơ quan ngang Bộ, 85,7% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tổ chức các khóa đào tạo nhằm nâng cao trình độ tin học cho cán bộ, công chức. Số lượng cán bộ, công chức tham gia, đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ đạt tỷ lệ 7%, đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt tỷ lệ 4%.
Một số Bộ, cơ quan ngang Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành các văn bản quy định về phát triển nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT nhưng số lượng còn hạn chế (59% các Bộ, cơ quan ngang Bộ, 54% các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành). Phần lớn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa có chính sách thu hút cán bộ có trình độ cao về làm việc, chưa có chế độ khuyến khích, đãi ngộ cán bộ chuyên trách về CNTT, đây cũng là nguyên nhân khiến đội ngũ cán bộ chuyên trách, chuyên gia CNTT trong các cơ quan nhà nước còn thiếu, yếu. Hiện nay chỉ có 3 Bộ, cơ quan ngang Bộ (chiếm tỷ lệ 13,6%), 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (chiếm tỷ lệ 20,6%) đã ban hành văn bản quy định về chế độ ưu đãi đối với cán bộ chuyên trách về CNTT (bao gồm: Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tỉnh, thành phố: Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Thuận, Bình Định, Hà Nội, Hà Nam, Đà Nẵng, Đồng Nai, Hải Phòng, Khánh Hòa, Lào Cai, Tiền Giang, Vĩnh Phúc).
c. Về môi trường pháp lý