CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 360-CT
|
Hà Nội, ngày 05
tháng 11 năm 1991
|
CHỈ
THỊ
VỀ VIỆC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ LÀM VIỆC CỦA HỘI ĐỒNG BỘ
TRƯỞNG
I.
Trong những năm qua, Hội đồng Bộ trưởng đã nhiều lần cải
tiến chế độ làm việc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu lực quản lý và đã
có một số tiến bộ. Tuy nhiên cách làm việc của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch,
các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các Bộ trưởng hiện nay vẫn còn nhiều nhược
điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu chỉ đạo, quản lý của cơ quan hành pháp cao nhất
của Nhà nước:
Hội đồng Bộ trưởng chưa phát huy
cao trí tuệ tập thể, chưa đầu tư thích đáng thời gian, công sức vào việc chuẩn
bị, thảo luận để quyết định những vấn đề có tính chiến lược thuộc tầm quản lý
vĩ mô, còn coi nhẹ việc kiểm tra, thanh tra, đánh giá kết quả thực hiện các quyết
định của Hội đồng Bộ trưởng.
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và
các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, một mặt chưa thực hiện tốt việc chỉ đạo
xây dựng các đề án lớn trình Hội đồng Bộ trưởng, chậm quyết định những vấn đề về
cơ chế chính sách mang tính liên ngành, mặt khác còn trực tiếp giải quyết một số
công việc thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Chủ tịch Uỷ
ban Nhân dân tỉnh, thành phố.
- Các Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ
ban Nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc điều
hành quản lý các lĩnh vực và ngành phụ trách, chưa chủ động phối hợp với các Bộ,
Uỷ ban Nhà nước, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố khi giải quyết những vấn đề
có liên quan với các cơ quan nói trên, vẫn còn chuyển lên đề nghị Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng giải quyết nhiều việc thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng và Chủ tịch,
Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vẫn còn chỉ đạo quá sâu vào việc giải quyết một
số công việc thuộc thẩm quyền của cấp dưới, của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
- Chế độ làm việc và quan hệ
công tác giữa Chủ tịch và các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và giữa Chủ tịch,
các Phó chủ tịch với các Bộ trưởng tuy đã được quy định trong Luật tổ chức Hội
đồng Bộ trưởng nhưng chưa được cụ thể hoá rõ trách nhiệm của tổ chức và cá
nhân, trách nhiệm của tập thể Hội đồng Bộ trưởng và của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng. Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng trên thực tế, đã trở thành một cấp quyết định.
Trong một số trường hợp, Thường vụ đã quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền
Hội đồng Bộ trưởng.
- Hội đồng Bộ trưởng chưa bàn kỹ
chương trình công tác năm và 6 tháng. Việc thực hiện chương trình đã ấn định
chưa được nghiêm túc, không bảo đảm đúng tiến độ. Quy trình chuẩn bị các đề án
trình ra Hội đồng Bộ trưởng đã có tiến bộ, nhưng nói chung chất lượng còn thấp;
nhiều đề án quan trọng và phức tạp chưa tập trung tốt trí tuệ của các chuyên
gia, chưa có sự phối hợp liên ngành, do đó có một số đề án còn phải bàn nhiều lần,
tốn thời gian, công sức dẫn đến việc chậm ban hành các văn bản. Trong các phiên
họp Hội đồng Bộ trưởng, một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng nói dài, chưa tập
trung vào những vấn đề cần thảo luận để quyết định, do đó hiệu quả các phiên họp
chưa cao.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ
đạo và kiểm tra không chặt chẽ hoạt động của Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố,
không nắm chắc và kịp thời tình hình các địa phương, nhất là tình hình thực hiện
các Luật, Pháp lệnh của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và các quyết định của Hội đồng
Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Chậm phát hiện và không kiên quyết xử
lý một số trường hợp Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố ban hành một số văn bản
trái với Pháp luật, trái với các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng.
- Chế độ kiểm điểm công tác, tự
phê bình và phê bình chưa được Hội đồng Bộ trưởng, các thành viên Hội đồng Bộ
trưởng thực hiện nghiêm túc, do vậy những thiếu sót, nhược điểm trong sự chỉ đạo
và cách làm việc chưa được khắc phục kịp thời.
Nguyên nhân chính của tình hình
trên là:
- Trong Hội đồng Bộ trưởng, về
nhận thức và quan điểm về công tác quản lý hành chính Nhà nước còn chưa đầy đủ
và thống nhất; ý thức và trách nhiệm đối với tập thể Hội đồng Bộ trưởng chưa
cao; việc thực hiện quy chế làm việc của Hội đồng Bộ trưởng chưa nghiêm túc; việc
kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm không thường xuyên và kịp thời.
- Nội dung Luật tổ chức Hội đồng
Bộ trưởng và quy chế làm việc của Hội đồng Bộ trưởng còn nhiều điểm không phù hợp
với đường lối đổi mới, với cơ chế quản lý mới, với thực tiễn đời sống kinh tế
xã hội.
II.
Việc sửa đổi một cách cơ bản chế độ làm việc của Hội đồng
Bộ trưởng sẽ thực hiện sau khi có Hiến pháp sửa đổi, và Luật tổ chức Hội đồng Bộ
trưởng mới.
Trước mắt, theo tinh thần của
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII, theo Hiến pháp sửa đổi, và để đáp ứng kịp
thời với yêu cầu thực tiễn của tình hình và nhiệm vụ mới, nhằm quy định rõ thêm
trách nhiệm và quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và
các Bộ trưởng để nâng cao một bước chất lượng và hiệu quả hoạt động của Hội đồng
Bộ trưởng; Hội đồng Bộ trưởng quy định một số điểm cụ thể đổi mới về chế độ làm
việc của Hội đồng Bộ trưởng như sau:
1. Tập thể Hội
đồng Bộ trưởng.
a) Tập thể Hội đồng Bộ trưởng thảo
luận và thông qua những loại vấn đề chính:
- Chương trình công tác hàng năm
của Hội đồng Bộ trưởng.
- Chiến lược và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; ngân sách Nhà nước; xử lý những cân đối lớn chủ yếu của
nền kinh tế quốc dân.
- Cơ chế, chính sách lớn và quan
trọng về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại.
- Chuẩn bị các dự án Luật, Pháp
lệnh.
- Quyết định những vấn đề lớn về
bộ máy tổ chức thuộc hệ thống chính quyền.
Một số vấn đề (kể cả một số dự
luật và pháp lệnh) cần có ý kiến của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước
khi quyết định, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có thể gửi văn bản lấy ý kiến các
thành viên Hội đồng Bộ trưởng thay thế cho tổ chức họp Hội đồng Bộ trưởng.
b) Nâng cao chất lượng các phiên
họp Hội đồng Bộ trưởng.
- Chương trình công tác hàng năm
của Hội đồng Bộ trưởng được tổng hợp từ kiến nghị của các Bộ, Uỷ ban Nhà nước,
do tập thể Hội đồng Bộ trưởng thông qua và bảo đảm thực hiện theo chương trình
làm việc đã định. Mỗi thành viên Hội đồng bộ trưởng cần bố trí chương trình
công tác của Bộ, ngành mình phù hợp với chương trình chung của Hội đồng Bộ trưởng.
Cuối năm phải kiểm điểm, đánh giá một cách nghiêm túc việc thực hiện chương
trình công tác của Hội đồng Bộ trưởng.
Căn cứ vào chương trình công tác
chung của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trao đổi ý kiến để
quyết định chương trình công tác hàng tháng của Hội đông Bộ trưởng, chương tình
công tác hàng tuần của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và thông
báo sớm đến các thành viên Hội đồng Bộ trưởng.
- Các thành viên Hội đồng Bộ trưởng
thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc thực hiện chương trình, chuẩn bị tốt đề
án được phân công, thảo luận và thông qua các vấn đề thuộc thẩm quyền Hội đồng
Bộ trưởng:
Trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo
các đề án đưa ra Hội đồng Bộ trưởng (nếu là chủ đề án), bảo đảm đề án có chất
lượng cao và đúng quy trình, thủ tục đã quy định. Đối với những đề án có liên
quan đến nhiều Bộ, ngành và địa phương, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có thể lập
tiểu ban nghiên cứu dự án gồm đại diện các Bộ có liên quan, phân công một Bộ
trưởng chủ trì soạn thảo đề án.
Tham gia ý kiến rõ ràng, đầy đủ
và đúng thời gian quy định vào những đề án do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng gửi đến
lấy ý kiến.
Chủ động và tích cực tham gia kiểm
điểm công tác và chế độ làm việc của Hội đồng Bộ trưởng, của Chủ tịch, các Phó
chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Hội đồng Bộ trưởng họp thường
lệ mỗi tháng một phiên từ 2 đến 3 ngày vào tuần cuối của tháng. Trường hợp cần
thiết, có những phiên họp bổ sung.
Trước phiên họp Hội đồng Bộ trưởng
ít nhất là 7 ngày, các cơ quan chủ đề án phối hợp với Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng
giới thiệu trước nội dung đề án cho những cán bộ có trách nhiệm giúp các Bộ trưởng
chuẩn bị phát biểu ý kiến về đề án đó. Từng thành viên Hội đồng Bộ trưởng có
trách nhiệm phát biểu ý kiến chính thức bằng văn bản gửi Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng và cơ quan chủ đề án.
Cơ quan chủ đề án tổng hợp những
ý kiến này để trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng xem xét trước khi đưa ra Hội đồng
Bộ trưởng thảo luận. Hồ sơ đề án trình Hội đồng Bộ trưởng phải có tờ trình Hội
đồng Bộ trưởng nêu tóm tắt nội dung chính của đề án, những vấn đề còn có ý kiến
khác nhau cần thảo luận, kèm theo dự thảo văn bản pháp quy về vấn đề trên của Hội
đồng Bộ trưởng để Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng xem xét, ban hành.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
thông báo ngày họp và chương trình làm việc của phiên họp Hội đồng Bộ trưởng
cho các thành viên Hội đồng Bộ trưởng chậm nhất trước 10 ngày. Tài liệu họp Hội
đồng Bộ trưởng phải được gửi đến các thành viên Hội đồng Bộ trưởng chậm nhất là
3 ngày trước phiên họp.
Tuỳ theo mức độ quan trọng và
tính chất của từng đề án, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng hoặc Phó chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng chỉ định đại diện một số ngành liên quan, một số nhà khoa học, chuyên
gia tham gia thẩm định đề án.
Đối với những đề án không bảo đảm
chất lượng hoặc không làm đúng thủ tục quy định thì Phó chủ tịch thường trực Hội
đồng Bộ trưởng quyết định chưa trình đề án ra Hội đồng Bộ trưởng.
- Bảo đảm các nguyên tắc sinh hoạt,
tính nghiêm túc của các phiên họp Hội đồng Bộ trưởng.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là
chủ toạ, điều khiển hội nghị Hội đồng Bộ trưởng, khi Chủ tịch vắng mặt thì Phó
chủ tịch trực thay mặt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng điều khiển phiên họp.
Thực hiện việc kiểm danh các
thành viên Hội đồng Bộ trưởng. Các thành viên Hội đồng Bộ trưởng có trách nhiệm
dự họp đầy đủ từ đầu đến cuối phiên họp, chỉ trong trường hợp bị ốm hoặc đi
công tác nước ngoài mới được cử Thứ trưởng thường trực đi họp thay và phải báo
cáo trước với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Cần có những phiên họp Hội đồng
Bộ trưởng không mở rộng, chỉ gồm các thành viên Hội đồng Bộ trưởng. Trong các
phiên họp Hội đồng Bộ trưởng mở rộng, có mời đại diện một số cơ quan có liên
quan đến dự, những đại biểu này chỉ phát biểu ý kiến khi chủ toạ phiên họp yêu
cầu.
Trong hội nghị, Chủ đề án không
trình bày toàn bộ đề án, chỉ đọc tờ trình ngắn gọn. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
nêu những vấn đề cần tập trung thảo luận. Để bảo đảm thời gian và sự đóng góp
trí tuệ của tập thể Hội đồng Bộ trưởng, các thành viên Hội đồng Bộ trưởng cần
phát biểu ngắn gọn, nói rõ đồng ý hay không đồng ý điểm nào, cần bổ sung, sửa
chữa như thế nào đối với những vấn đề thảo luận.
Kết quả hội nghị phải thể hiện ở
việc thông qua các văn bản có chất lượng cao (dự luật, dự thảo pháp lệnh, nghị
định, quyết định... của Hội đồng Bộ trưởng). Trường hợp chưa thông qua ngay được
văn bản thì phải có kết luận cụ thể của chủ toạ phiên họp ghi thành văn bản để
làm căn cứ tiếp tục xây dựng các văn bản pháp quy của Hội đồng Bộ trưởng hoặc
hoàn chỉnh các dự luật, dự thảo pháp lệnh để trình quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
Trường hợp có ý kiến không thống nhất, thì kết luận của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng là ý kiến cuối cùng.
Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng có
trách nhiệm gửi văn bản kết luận của phiên họp Hội đồng Bộ trưởng đến các thành
viên Hội đồng Bộ trưởng chậm nhất 10 ngày sau phiên họp.
2. Chủ tịch Hội
đông Bộ trưởng và các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng :
là người đứng đầu Hội đồng Bộ trưởng, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Hội
đồng Bộ trưởng. Các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được Chủ tịch phân công phụ
trách một số lĩnh vực, ngành hoặc chương trình công tác lớn của Hội đồng Bộ trưởng.
Để điều hành liên tục công việc
của Hội đồng Bộ trưởng ngay sau kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá VIII, trước mắt, Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng đã phân công nhiệm vụ Chủ tịch và 3 Phó chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng như đã thông báo (số 65-TB ngày 15 tháng 8 năm 1991 của Hội đồng Bộ
trưởng) cho các thành viên Hội đồng Bộ trưởng. Tuỳ theo tình hình thực tế sẽ
phân công lại phù hợp hơn.
- Phó Chủ tịch trực Hội đồng Bộ
trưởng: Ngoài phần trực tiếp phụ trách các lĩnh vực được phân công như các Phó
chủ tịch khác, có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng điều hành công việc
hàng ngày của Hội đồng Bộ trưởng như: quản lý và tổ chức thực hiện chương trình
làm việc của Hội đồng Bộ trưởng; giải quyết những vấn đề không thuộc các Phó chủ
tịch khác phụ trách; phối hợp với các Phó chủ tịch khác để xử lý những vấn đề
có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực; thay mặt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vắng mặt.
- Các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng có trách nhiệm chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của các Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước; đôn đốc, kiểm tra công tác của các ngành, lĩnh vực
được phân công phụ trách. Tổ chức triển khai thực hiện các quyết định của Hội đồng
Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thuộc lĩnh vực phụ trách.
Phó chủ tịch thay mặt Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng quyết định một số vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng trong lĩnh vực điều hành để thực hiện các chủ trương lớn của Hội đồng Bộ
trưởng, Luật và Pháp lệnh đã ban hành. Những vấn đề thuộc về cơ chế, chính sách
chung có liên quan đến nhiều ngành và địa phương thì Phó chủ tịch chuẩn bị và
kiến nghị để Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định hoặc đưa vào chương trình
làm việc của Thường trực Hội đồng Bộ trưởng hoặc tập thể Hội đồng Bộ trưởng.
- Việc ra quyết định của Chính
phủ có 2 cấp là: Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Tập thể Thường trực Hội đồng Bộ
trưởng mỗi tháng họp 2 kỳ để xem xét các đề án trình ra Hội đồng Bộ trưởng và
quyết định một số vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Sáng thứ hai hàng tuần hội ý
Thường trực Hội đồng Bộ trưởng (gồm chủ tịch và các Phó chủ tịch) để :
Chủ nhiệm Văn phòng báo cáo những
công việc chính đã xử lý tuần trước và trao đổi để quyết định một số vấn đề thuộc
thẩm quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Bàn chương trình công tác tuần
sau.
- Về thẩm quyền ký các văn bản
pháp quy của Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng:
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký
các văn bản thuộc cơ chế, chính sách, tổ chức và nhân sự của các Bộ, Uỷ ban
Nhân dân tỉnh, thành phố (thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng).
Phó chủ tịch thường trực ký thay
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đi vắng; thay Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng ký một số văn bản thuộc thẩm quyền của Hội đồng Bộ trưởng và
một số văn bản thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Các Phó chủ tịch khác ký thay Chủ
tịch hội đồng Bộ trưởng một số văn bản mang tính chất đôn đốc hoặc giải quyết
những công việc cụ thể thuộc lĩnh vực phụ trách.
Không ra những văn bản với danh
nghĩa Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Những quyết định của Chủ tịch hoặc
Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phải được thể hiện bằng văn bản chính thức do
Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký. Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng
Bộ trưởng được uỷ quyền thông báo quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đối
với một số công việc cụ thể không thuộc về cơ chế, chính sách.
- Về thủ tục trình ký, ban hành
văn bản:
Các văn bản pháp quy do các Bộ
hoặc Uỷ ban Nhà nước trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng hoặc Phó chủ tịch trực
ký phải có chữ ký tắt của Bộ trưởng hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước chủ quản và
của Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.
Các văn bản pháp quy khác trình
Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phải có chữ ký tắt của Chủ nhiệm
Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.
Tất cả các văn bản của các
ngành, các cấp trình Chủ tịch và các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đều phải gửi
qua Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng để đăng ký văn thư và Văn phòng hội đồng bộ
trưởng làm thủ tục trình. Trường hợp Chủ tịch và các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng hoặc các đồng chí thư ký của Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
nhận trực tiếp văn bản thì cũng phải chuyển lại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng để
làm thủ tục.
Những văn bản có bút tích của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng hoặc các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ lưu giữ tại
Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng (kể cả bản sao chụp), không được phép phát hành ra
ngoài Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.
- Chủ tịch và các Phó chủ tịch
có chế độ làm việc trực tiếp định kỳ với Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân một số tỉnh,
thành phố; Văn phòng Hội đồng bộ trưởng cần tăng cường và kiện toàn bộ phận cán
bộ giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng theo dõi, kiểm tra sự hoạt động của các Uỷ
ban Nhân dân tỉnh, thành phố.
- Để giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng chỉ đạo công tác một cách kịp thời, nắm và uốn nắn những lệch lạc trong
việc thực hiện các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng ở các địa phương, từ nay sẽ
đặt một số đặc phái viên của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tại một số vùng.
3. Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà
nước một mặt là thành viên Hội đồng Bộ trưởng, phải thực hiện với tinh thần
trách nhiệm đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn đối với công việc chung của tập thể Hội
đồng Bộ trưởng, mặt khác là người đứng đầu cơ quan quản lý Nhà nước về một số
ngành hoặc lĩnh vực. Cần phải phát huy đầy đủ, mạnh mẽ trách nhiệm và quyền hạn
của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước. Các Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà
nước phải chủ động quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền và chịu trách nhiệm
trước Hội đồng Bộ trưởng và trước Quốc Hội những vấn đề thuộc ngành, lĩnh vực
mình phụ trách. Mỗi Bộ trưởng phải thực hiện tốt việc phối hợp, trao đổi ý kiến
với các Bộ, các ngành, với Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố về những
vấn đề có liên quan, xử lý công việc theo đúng trách nhiệm và thẩm quyền, đúng
thời gian quy định, không vì chờ sự phối hợp, trao đổi và thống nhất ý kiến mà
để chậm trễ công việc. Chỉ những vấn đề vượt quá thẩm quyền của Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, những vấn
đề có tính liên ngành đã qua phối hợp nhưng không thống nhất ý kiến mới trình
xin quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và khi trình phải kiến nghị cả
giải pháp xử lý.
Trên thực tế việc xác định cụ thể
những vấn đề thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước là
không đơn giản. Vì vậy, yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước trong
quý IV năm 1991 cần nghiên cứu và kiến nghị với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
danh mục các loại vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ
ban Nhà nước và các vấn đề phải trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định, để
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định và báo cho các thành viên Hội đồng Bộ
trưởng biết và thực hiện.
4. Văn phòng Hội
đồng Bộ trưởng
Để hoạt động của Văn phòng Hội đồng
Bộ trưởng đáp ứng được yêu cầu chỉ đạo của Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng, phải xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng Hội đồng
Bộ trưởng và phải đổi mới cơ bản tổ chức bộ máy, cán bộ và cách làm việc của
văn phòng theo định hướng như sau:
- Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng
là bộ máy làm việc của Hội đồng Bộ trưởng và của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
có vị trí ngang các Bộ và Uỷ ban Nhà nước, với chức năng tham mưu tổng hợp và
phục vụ công tác hậu cần cho Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
- Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng
có các nhiệm vụ chính là:
Xây dựng chương trình hoạt động
của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tổ chức theo dõi, đôn đốc
các bộ, các ngành thực hiện đúng chương trình đã định.
Kiểm tra, rà soát công tác chuẩn
bị các đề án do các Bộ, Uỷ ban trình ra Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, nhằm bảo đảm đề án trình có chất lượng, đúng thủ tục.
Cung cấp thông tin cho Hội đồng
Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu, đề xuất ý kiến để giúp Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giải quyết công việc của Chính phủ và
tổ chức kiểm tra việc thực hiện các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng.
Tổ chức và phục vụ tốt các phiên
họp của Hội đồng Bộ trưởng, các cuộc họp làm việc của Chủ tịch, các Phó Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng với các ngành, địa phương.
Làm nhiệm vụ phục vụ và công tác
hậu cần cho hoạt động Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Bộ máy tổ chức và cán bộ của Văn
phòng cần được đổi mới và tổ chức lại để đáp ứng chế độ làm việc mới của Hội đồng
Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, hình thành đần tổ chức Văn phòng theo
hướng Hiến pháp sửa đổi, gồm những bộ phận chính sau đây:
+ Bộ phận tư vấn cho Chủ tịch
(các Phó chủ tịch) Hội đồng Bộ trưởng gồm những chuyên gia giỏi về từng lĩnh vực
và có kiến thức tổng hợp.
+ Bộ phận hành chính bảo đảm
pháp lý hành chính cho toàn bộ công tác điều hành của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng.
+ Bộ phận phục vụ về mặt hậu cần
cho các hoạt động của Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ và
chế độ làm việc của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng sẽ được quy định trong văn bản
riêng.
Giao Ban Tổ chức - Cán bộ của
Chính phủ chủ trì cùng Bộ Tư pháp và Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng xúc tiến việc
nghiên cứu soạn thảo bản quy chế về chế độ làm việc của Hội đồng Bộ trưởng theo
nội dung Hiến pháp sửa đổi và luật mới về tổ chức Hội đồng Bộ trưởng, để sau
khi Quốc hội thông qua Hiến pháp sửa đổi và luật mới về tổ chức Hội đồng Bộ trưởng,
thì tiếp tục hoàn chỉnh để trình Hội đồng Bộ trưởng thông qua.