Chỉ thị 27/2003/CT-TTg về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 27/2003/CT-TTg
Ngày ban hành 11/12/2003
Ngày có hiệu lực 28/12/2003
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Nguyễn Tấn Dũng
Lĩnh vực Doanh nghiệp

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 27/2003/CT-TTg

Hà Nội, ngày 11 tháng 12 năm 2003

 

CHỈ THỊ

VỀ TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN LUẬT DOANH NGHIỆP, KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

Luật Doanh nghiệp sau 4 năm thực hiện đã tạo ra bước đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế, cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Cùng với việc thực hiện Luật Doanh nghiệp, các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế dân doanh được ban hành đã tháo gỡ các vướng mắc khó khăn, phát huy mạnh mẽ tính sáng tạo, sức sản xuất của nhân dân trên khắp mọi vùng đất nước, hướng vào đầu tư sản xuất, kinh doanh góp phần quan trọng vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.

Tuy nhiên, việc thực hiện Luật Doanh nghiệp vẫn còn bị một số hạn chế từ phía cơ quan quản lý nhà nước và cả doanh nghiệp. Quyền tự do kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật vẫn chưa được thực hiện đầy đủ; các chính sách về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa chậm được triển khai; công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn lúng túng: vẫn còn tình trạng ban hành các văn bản pháp quy chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu sản xuất, kinh doanh đôi khi xuất hiện trở lại cơ chế xin - cho; không ít thủ tục gia nhập thị trường còn bất hợp lý, chi phí cao, thời gian kéo dài, nhất là trong các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; quy hoạch phát triển ngành nghề còn chưa sát hợp, phải chỉnh sửa nhiều, làm trở ngại doanh nghiệp mới ra đời hoặc mở rộng đầu tư; đôi khi vì hành vi vi phạm pháp luật của một vài doanh nghiệp mà đặt ra những quy định chung gò bó, phức tạp; không ít các cơ quan chức năng, cán bộ, công chức còn tùy tiện đặt thêm nhiều thủ tục hành chính phiền hà, làm lỡ thời cơ, gây tốn kém cho doanh nghiệp.

Về phía doanh nghiệp, trình độ hiểu biết luật pháp và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận chủ sở hữu và người quản lý chưa cao; một số doanh nghiệp còn làm ăn không trung thực, cố tình vi phạm quy định pháp luật; quản trị nội bộ doanh nghiệp còn yếu, chưa minh bạch; các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa có sự liên kết, hợp tác nên hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh còn thấp; các hiệp hội doanh nghiệp còn lúng túng về phương thức hoạt động, chưa thực sự hỗ trợ các thành viên phát triển.

Để khắc phục những yếu kém nói trên, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và có thêm nhiều doanh nghiệp gia nhập thị trường, nhất là ở các vùng nông thôn, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:

1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải thực hiện đúng quy định của Hiến pháp là "tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm"; bảo đảm các doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp dân doanh được đối xử bình đẳng trong đầu tư, tín dụng, thuế, đất đai, xúc tiến thương mại, xuất nhập khẩu và các lĩnh vực khác; đồng thời, thực hiện ngay những việc sau:

a) Khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ đã được giao tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quyết định số 94/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX và Chỉ thị số 08/2002/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trước ngày 30 tháng 4 năm 2004.

b) Kiểm tra, rà soát các văn bản pháp quy của bộ, ngành, địa phương có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bãi bỏ, bổ sung hoặc sửa đổi những quy định không còn phù hợp, xây dựng các văn bản mới cần thiết cho kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với tư tưởng đổi mới của Đảng, Nhà nước và phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ quan đã ban hành văn bản không phù hợp với luật, pháp lệnh hoặc nghị định, phải ra văn bản sửa đổi hoặc huỷ bỏ nội dung không phù hợp; đồng thời xử lý nghiêm theo thẩm quyền đối với những cán bộ, công chức đã ký và tham mưu ban hành các nội dung sai trái đó.

c) Trong quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến môi trường kinh doanh, đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp, phải lấy ý kiến tham gia của cộng đồng doanh nghiệp. Khi ban hành, phải tổ chức phổ biến rộng rãi và hướng dẫn thi hành đến các cấp cơ sở, các hiệp hội và doanh nghiệp.

d) Định kỳ tổ chức việc đối thoại giữa các cơ quan chức năng với đại diện các doanh nghiệp về từng chủ đề, giữa Bộ với các doanh nghiệp có liên quan đến văn bản pháp quy mà Bộ ban hành, qua đó tiếp thu những giải pháp mới do địa phương và doanh nghiệp đề xuất để bổ sung, hoàn chỉnh các văn bản pháp quy; đồng thời, giải quyết kịp thời và dứt điểm những vướng mắc trong quá trình thi hành luật pháp và chính sách.

2. Bộ Tư pháp:

a) Trong quý I năm 2004, ban hành Thông tư hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề tư vấn pháp lý theo hướng luật sư và những người có đủ điều kiện, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp đều được quyền cung ứng dịch vụ tư vấn pháp lý.

b) Trong quý II năm 2004, ban hành quy định hướng dẫn về hồ sơ, trình tự và thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với tài sản có đăng ký để góp vốn.

3. Bộ Tài chính:

a) Trong quý I năm 2004, trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

b) Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát, đánh giá các quy định hiện hành đang làm hạn chế việc nâng cao tính minh bạch trong quản lý tài chính doanh nghiệp, nhất là quy định về báo cáo tài chính, kế toán, hạch toán chi phí, căn cứ tính thuế và cách thức thu, nộp thuế, quản lý thuế. Trên cơ sở đó sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị giải pháp khắc phục trong quý II năm 2004.

c) Trong quý III năm 2004, trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định điều kiện kinh doanh không phân biệt thành phần kinh tế đối với các dịch vụ đòi nợ, định giá tài sản, đánh giá tín nhiệm.

d) Mở rộng thí điểm chế độ tự kê khai nộp thuế đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

a) Trong tháng 12 năm 2003, trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 02/2000/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh và Nghị định số 03/2000/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Thông tư số 08/2001/TT-BKH của Bộ hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh.

b) Trong quý I năm 2004, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các chương trình trợ giúp của Nhà nước cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.

c) Trong quý III năm 2004, trình Chính phủ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 77/1997/NĐ-CP về BOT trong nước theo hướng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn đầu tư trong nước phát triển cơ sở hạ tầng.

d) Trong quý IV năm 2004, hoàn thành việc nối mạng hệ thống thông tin doanh nghiệp toàn quốc.

đ) Phối hợp với Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan tiếp tục tập hợp, rà soát, đánh giá, phân loại các loại giấy phép kinh doanh và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ biện pháp xử lý.

e) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Công an rà soát, đánh giá các điều kiện gia nhập thị trường của các loại hình doanh nghiệp, bao gồm: hồ sơ, thủ tục, chi phí, thời gian trong các khâu đăng ký kinh doanh, phê duyệt dự án đầu tư, khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hoá đơn, đăng ký mã số hải quan... nhằm sửa đổi, bãi bỏ hoặc trình cơ quan có thẩm quyền, sửa đổi, bãi bỏ các hồ sơ, thủ tục, điều kiện và chi phí bất hợp lý, cải tiến theo hướng đơn giản, thuận tiện cho doanh nghiệp, hợp lý hoá quy trình làm việc và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan.

5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:

a) Trong quý I năm 2004 trình Chính phủ dự thảo Nghị định về điều kiện kinh doanh và tổ chức quản lý kinh doanh dịch vụ giới thiệu việc làm.

[...]