Thứ 6, Ngày 25/10/2024

Chỉ thị 18/VHTT về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong hoạt động ngành văn hóa thông tin do Bộ Văn hoá-Thông tin ban hành

Số hiệu 18/VHTT
Ngày ban hành 20/03/1996
Ngày có hiệu lực 20/03/1996
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Bộ Văn hoá-Thông tin
Người ký Lưu Trần Tiêu
Lĩnh vực Công nghệ thông tin

BỘ VĂN HOÁ-THÔNG TIN
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 18/VHTT

Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 1996

 

CHỈ THỊ

VỀ ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG HOẠT ĐỘNG NGÀNH VĂN HOÁ THÔNG TIN

Mục đích của việc phát triển công nghệ thông tin (CNTT) trong ngành VHTT là sử dụng CNTT nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin trong nước cũng như trên thế giới phục vụ công tác quản lý nhà nước, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp và sản xuất kinh doanh, tích hợp nguồn tài nguyên thông tin phục vụ nhu cầu nghiên cứu khoa học và khai thác thông tin của các đơn vị trong và ngoài ngành, trong và ngoài nước.

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CNTT TRONG NGÀNH VHTT

1. Căn cứ pháp lý về phát triển CNTT

Ngày 04/08/1993. Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết số 49/CP của Chính phủ về việc phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90.

Ngày 11/4/1994, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ban hành Thông tư hướng dẫn triển khai Nghị quyết 49/CP của Chính phủ.

Ngày 7/4/1995, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 211/TTg phê duyệt chương trình CNTT Kế hoạch tổng thể đến năm 2000.

Ngày 12/6/1995, Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin ra Quyết định số 2142/TC-QĐ thành lập Ban chỉ đạo phát triển CNTT thuộc Bộ Văn hoá Thông tin.

Ngày 22/6/1995, Ban chỉ đạo chương trình quốc gia về CNTT đã ban hành Thông tư hướng dẫn số 83/BCĐ-KHTC triển khai chương trình quốc gia về CNTT.

2. Tình hình phát triển CNTT trong ngành VHTT.

Do yêu cầu của công tác quản lý, nghiên cứu, sản xuất, tuỳ theo đặc thù của các đơn vị trong ngành, việc áp dụng CNTT đã được đưa vào dưới nhiều hình thức khác nhau và đã đạt được một số thành quả đáng kể, song do phát triển có tính tự phát nên còn tồn tại nhiều hạn chế. Các vấn đề trên có thể tóm tắt như sau:

a. Một số kết quả đã đạt được

Bộ đã trang bị máy vi tính, thiết lập mạng truyền thông e-mail tới tất cả các Sở. Một phần công tác quản lý và xử lý văn bản tại Bộ và các Sở đã sử dụng máy vi tính. Thông qua mạng điện thư, các văn bản, báo cáo, tin tức của Bộ gửi tới các Sở, giữa các Sở với Bộ và giữa các Sở với nhau đã đáp ứng được một phần nhu cầu truyền thông hiện đại.

Thư viện Quốc gia được tài trợ của nước ngoài và ngân sách của Bộ đã tiến hành trang bị máy tính và nối mạng với các Thư viện tỉnh. Qua hệ thống mạng thư viện có thể nối mạng với thư viện quốc tế do có sự hoà nhập, sử dụng chuẩn mạng và phần mềm thư viện quốc tế. Các thư viện tỉnh đang tiến hành lập thư mục điện tử giúp cho việc tra cứu của bạn đọc nhanh chóng. Điển hình trong công tác này là thư viện TPHCM.

Tại một số đơn vị sản xuất kinh doanh đã đầu tư CNTT vào quy trình công nghiệp, làm tăng một phần năng suất và chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là ngành in, do chuyển giao CNTT hiện đại nêm một số sản phẩm ngành in đã có thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài.

Một số thông tin kinh tế xã hội đang được tích hợp và khai thác phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cá nhân. Tiêu biểu là trung tâm DATABANK thuộc sở VHTT TPHCM.

b. Những hạn chế cần phải khắc phục

Việc ứng dụng CNTT tập trung ở các thành phố, các đơn vị lớn, các đơn vị sản xuất kinh doanh và một phần tại cơ quan Bộ. Phần lớn các đơn vị tại các Sở VHTT, các đơn vị sự nghiệp hầu như chưa ứng dụng có hiệu quả CNTT

Cán bộ hoạt động về CNTT trong toàn ngành, đặc biệt là các Sở VHTT, còn quá ít, không đồng đều về trình độ và chưa được ưu tiên, chú ý bồi dưỡng, đào tạo.

Do chưa có mạng máy tính nên hiệu quả sử dụng của các máy tính đơn lẻ còn rất thấp, không ứng dụng được các phần mềm lớn có vai trò thúc đẩy sự phát triển như các phần mềm tự động hoá, các hệ thống thông tin quản lý, khả năng chia xẻ, khai thác thông tin, dẫn đến tình trạng thất thoát và tái phân tán thông tin.

Bộ chưa có trung tâm nghiên cứu phát triển, tiếp thu kinh nghiệm của các ngành trong nước cũng như nước ngoài nên trong quá trình phát triển vẫn còn mang tính kinh nghiệm. Bộ chưa có các công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, hội thảo khoa học bàn về phát triển CNTT cho những vấn đề đặc thù của ngành Văn hoá Thông tin. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phát triển tự phát, thiếu nhất quán của các đơn vị trong cả nước.

Trước tình hình trên, đòi hỏi toàn ngành phải chú ý đẩy mạnh phát triển CNTT trên tất cả các phương diện: Quản lý, Sản xuất, Dịch vụ, NCKH... tránh tình trạng tụt hậu so với các ngành khác, giúp cho việc quản lý khai thác tài nguyên thông tin hiệu quả hơn và hoà chung vào tiến trình "xã hội hoá thông tin" trong cả nước.

II.PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CNTT TRONG NGÀNH VHTT

1. Phương hướng chung

Phát triển CNTT trong ngành VHTT phải xác định rõ vai trò quản lý, sản xuất của ngành mang tính chất đặc thù rõ rệt. Việc ứng dụng CNTT vào ngành VHTT nhằm nâng cao năng suất, chất lượng công tác quản lý, sản phẩm văn hoá, nghệ thuật. CNTT phục vụ cho việc phổ biến, giao lưu văn hoá thuận lợi và nhanh chóng hơn, với mục đích là xoá "vùng trắng" văn hoá trên các thiết bị truyền thông đa phương tiện.

Trong nước ta hiện nay đã có nhiều ngành phát triển trước, do đó việc phát triển CNTT ở các đơn vị trong ngành phải tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm từ các đơn vị đó để tránh tình trạng "sa lầy" về công nghệ. Việc chuyển giao công nghệ phải đảm bảo là công nghệ hiện đại và phù hợp cho công tác chuyên môn của từng đơn vị.

Việc phát triển CNTT trong ngành phải tiến kịp và vượt lên nắm khâu then chốt, đặc biệt là vấn đề dịch vụ mạng tin học. Trên cơ sở đó Bộ mới đủ sức để quản lý các loại thông tin trên mạng, nhất là quản lý các nguồn thông tin quốc tế khi Internet cũng như các mạng Quốc tế khác xâm nhập vào Việt Nam.

[...]