Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Chỉ thị 146-TTg năm 1972 về cải tiến công tác thanh toán không dùng tiền mặt ở các xí nghiệp thí điểm cải tiến quản lý do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 146-TTg
Ngày ban hành 20/05/1972
Ngày có hiệu lực 20/05/1972
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Lê Thanh Nghị
Lĩnh vực Tiền tệ - Ngân hàng

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 146-TTg

Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 1972 

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC CẢI TIẾN CÔNG TÁC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở CÁC XÍ NGHIỆP THÍ ĐIỂM CẢI TIẾN QUẢN LÝ

Để phù hợp với yêu cầu cải tiến quản lý xí nghiệp, phải cải tiến công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Nội dung cải tiến công tác thanh toán trong chỉ thị này áp dụng đối với các xí nghiệp thí điểm cải tiến quản lý của trung ương và của các Bộ, Tổng cục, và các đơn vị mua, bán có liên quan với các xí nghiệp cải tiến quản lý.

Việc cải tiến công tác thanh toán nhằm đạt các yêu cầu sau đây:

- Vận dụng đúng đắn các thể thức thanh toán bằng chuyển khoản để giải quyết nhanh chóng các quá trình thanh toán với hao phí ít nhất cho nền kinh tế quốc dân, phục vụ tốt quá trình sản xuất liên tục của xí nghiệp và toàn xã hội, thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn, tăng cường kỷ luật hợp đồng kinh tế và củng cố chế độ hạch toán kinh tế, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tổ chức kinh tế, cả bên mua và bên bán.

- Nâng cao trách nhiệm và tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa của các thủ trưởng xí nghiệp, đề cao tinh thần tự chủ kinh doanh và sự quan tâm đầy đủ của các xí nghiệp đối với việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, nhất là chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hóa thực hiện, đối với việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế, kỷ luật thanh toán, chế độ hạch toán kinh tế và xóa bỏ tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, gây khó khăn dây chuyền về tài chính trong nền kinh tế quốc dân.

- Nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện công tác thanh toán và trong việc kiểm soát bằng đồng tiền các hoạt động kinh tế, thông qua công tác thanh toán; phát huy đầy đủ vai trò trung tâm thanh toán của Ngân hàng Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.

I. NGUYÊN TẮC THANH TOÁN

1. Tất cả các tổ chức kinh tế, các đơn vị thuộc Ngân sách Nhà nước cấp phát và các tổ chức khác phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, thực hiện các quan hệ thanh toán với nhau qua Ngân hàng Nhà nước bằng chuyển khoản, trừ những khoản được thanh toán bằng tiền mặt theo chế độ quản lý tiền mặt của Nhà nước.

2. Việc thanh toán là trách nhiệm của bên mua và bên bán. Hai bên mua, bán phải ký kết hợp đồng kinh tế cụ thể, hợp lệ và phải thanh toán theo đúng các điều đã ký kết trong hợp đồng kinh tế, dùng các nguyên tắc và thể thức thanh toán đã được Nhà nước quy định. Bên bán, sau khi chuyển giao hàng hóa hay hoàn thành cung ứng lao vụ, phải đòi tiền kịp thời. Bên mua phải trả tiền sòng phẳng và đúng thời hạn quy định theo các thể thức thanh toán. Mọi trường hợp chậm đòi tiền, hoặc chậm trả tiền đều là vi phạm kỷ luật thanh toán.

3. Cấm chi việc ứng trước, nhận tiền ứng trước (trừ trường hợp đặc biệt được Ngân hàng đồng ý), mua chịu, bán chịu, cho thuê mượn tài khoản giữa các đơn vị kinh tế, cơ quan Nhà nước, đơn vị bộ đội. Ngân hàng Nhà nước phải kiểm tra để ngăn ngừa và áp dụng kỷ luật nghiêm ngặt đối với những vi phạm trên.

4. Ngân hàng Nhà nước làm nhiệm vụ trung tâm thanh toán trong nền kinh tế quốc dân phải tổ chức tốt việc thực hiện công tác thanh toán giữa các xí nghiệp, cơ quan, đơn vị bộ đội, hợp tác xã, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán chính xác, kịp thời. Mọi sai sót, chậm trễ của cơ quan Ngân hàng Nhà nước gây thiệt hại về tài chính cho các đơn vị mua, bán đều phải chịu phạt để trả cho các đơn vị thiệt hại. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước được quyền áp dụng các hình thức phạt đối với các đơn vị mua, bán vi phạm, kỷ luật thanh toán.

5. Việc trích tài khoản phải có sự đồng ý của chủ tài khoản; trong trường hợp chủ tài khoản vi phạm kỷ luật hợp đồng kinh tế, có quyết định xử lý của Hội đồng trọng tài, và vi phạm kỷ luật thanh toán thì Ngân hàng Nhà nước được quyền trích tài khoản để trả cho bên được hưởng.

Đơn vị trả có trách nhiệm chuẩn bị đủ tiền trên tài khoản tiền gửi để trả cho đơn vị bán đúng kỳ hạn; nếu tài khoản tiền gửi không có đủ tiền thì phải xin vay Ngân hàng để trả (nếu thuộc đối tượng cho vay của Ngân hàng). Khi trên tài khoản tiền gửi không đủ để thỏa mãn cùng một lúc các yêu cầu chi trả, Ngân hàng sẽ giải quyết theo trật tự trước, sau, sau đây:

Thứ nhất: Trả lương và phụ cấp hoặc trợ cấp khác cho công nhân viên chức;

Thứ hai: Nộp thu quốc doanh, thuế, lợi nhuận;

Thứ ba: Các khoản chi trả tiền hàng và lao vụ;

Thứ tư: Trả nợ vay Ngân hàng;

Thứ năm: Nộp khấu hao cơ bản, khấu hao sửa chữa lớn và các khoản khác.

II. CÁC THỂ THỨC THANH TOÁN

Có bốn thể thức thanh toán bằng chuyển khoản: ủy nhiệm chi, giấy nhờ thu (thể thức thanh toán chấp nhận), séc và thư tín dụng.

Việc lựa chọn thể thức thanh toán do hai bên mua, bán thỏa thuận ghi trong hợp đồng kinh tế, phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh tế và điều kiện giao nhận vật tư hàng hóa.

Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn các đơn vị mua, bán, vận dụng tốt nhất các thể thức thanh toán. Trường hợp các đơn vị mua, bán vi phạm các nguyên tắc, thể lệ thanh toán của Nhà nước, hoặc có sự tranh chấp không thể thỏa thuận được về việc sử dụng thể thức thanh toán giữa hai bên mua, bán thì do Ngân hàng xác định thể thức thanh toán thích hợp để hai bên mua và bán áp dụng.

Để nâng cao tính tự chủ kinh doanh của xí nghiệp, đơn giản thủ tục thanh toán giữa các xí nghiệp, tiết kiệm phí lưu thông xã hội, tác động tốt đến việc cung cấp hàng hóa và cung ứng lao vụ đúng chất lượng, đúng mặt hàng và đúng thời hạn, giảm bớt tình trạng mắc mứu, khiếu nại trong quá trình thanh toán, cần tích cực mở rộng dần việc thanh toán bằng thể thức ủy nhiệm chi, bảo đảm cho bên mua được kiểm tra hàng hóa, lao vụ đúng số lượng, chất lượng trước khi trả tiền. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần cải tiến thể thức thanh toán bằng giấy nhờ thu cho chặt chẽ, bảo vệ quyền lợi cả bên mua và bên bán; cải tiến thể thức thanh toán bằng séc; áp dụng đúng đắn thể thức thanh toán bằng thư tín dụng; mở rộng cách thanh toán theo kế hoạch; từng bước áp dụng cách thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế; áp dụng cách thanh toán theo tài khoản đặc biệt trong những trường hợp cần thiết.

1. Thanh toán bằng ủy nhiệm chi:

Thể thức ủy nhiệm chi được dùng trong việc thanh toán giữa 2 đơn vị mua, bán cùng địa phương hoặc khác địa phương để trả tiền hàng và lao vụ sau khi bên mua kiểm tra số lượng, chất lượng hàng hóa hoặc lao vụ. Thể thức ủy nhiệm chi cũng được dùng để thanh toán tiền hàng và lao vụ theo kế hoạch, nộp các khoản cho ngân sách, trả nợ Ngân hàng, trả tiền phạt và các khoản chi trả khác.

Trong thanh toán tiền hàng và lao vụ, sau khi kiểm tra hàng đã nhận và lao vụ đã cung ứng, bên mua phải lập ủy nhiệm chi kịp thời để trả tiền theo đúng kỳ hạn quy định. Thể thức ủy nhiệm chi không áp dụng đối với bên mua thường xuyên vi phạm kỷ luật chi trả, không được dùng để ứng trước tiền hàng và trả trước tiền mua lao vụ chưa được cung ứng.

Khi áp dụng thể thức ủy nhiệm chi, bên bán sẽ được Ngân hàng xét cho vay về hàng hóa đã gửi đi và lao vụ đã cung ứng trong thời hạn chờ thu tiền. Thời hạn chuyển chứng từ sẽ do các cơ quan liên quan có trách nhiệm quy định. Sau khi đã gửi hàng đi, người bán phải đưa chứng từ đến Ngân hàng xin vay. Nếu quá hạn quy định mà người bán không đưa chứng từ đến thì Ngân hàng không cho vay. Trường hợp xí nghiệp thiếu vốn để hoạt động thì Ngân hàng sẽ cho vay ngoài kế hoạch.

[...]