Báo cáo 760/BC-BGDĐT về sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học, các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành

Số hiệu 760/BC-BGDĐT
Ngày ban hành 29/10/2009
Ngày có hiệu lực 29/10/2009
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Bộ Giáo dục và Đào tạo
Người ký Nguyễn Thiện Nhân
Lĩnh vực Giáo dục

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------

Số: 760/BC-BGDĐT

Hà Nội, ngày 29 tháng 10 năm 2009

 

BÁO CÁO

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC, CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO

Sau 23 năm đổi mới của đất nước và 9 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, giáo dục đại học nước ta đã từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, nguồn lực xã hội được huy động nhiều hơn và đạt được nhiều kết quả tích cực, cung cấp nguồn lao động chủ yếu có trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh quốc phòng và hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, giáo dục đại học đang đứng trước thách thức rất to lớn: Phương pháp quản lý nhà nước đối với các trường đại học, cao đẳng chậm được thay đổi, không đảm bảo yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của toàn hệ thống, chưa phát huy mạnh mẽ được sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý và sinh viên. Chất lượng nguồn nhân lực đang là một khâu yếu kém, kéo dài của toàn bộ hệ thống kinh tế.

I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

1. Kết quả đạt được của giáo dục đại học những năm qua

1.1. Đa dạng hóa về loại hình trường và hoàn thiện quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng

a) Về số trường: Năm 1987 cả nước có 101 trường đại học và cao đẳng (63 trường đại học, chiếm 62%; 38 trường cao đẳng, chiếm 38%), đến tháng 9/2009 có 376 trường đại học và cao đẳng, tăng gấp 3,7 lần (150 trường đại học, chiếm 40%, gấp 2,4 lần và 226 trường cao đẳng chiếm 60%, gấp 6 lần).

b) Về loại hình trường và sở hữu: Năm 1987 cả nước có 101 trường đại học và cao đẳng công lập, không có trường ngoài công lập; năm 1997 có 126 trường đại học và cao đẳng (tăng 1,2 lần), trong đó 15 trường đại học ngoài công lập; đến tháng 9/2009 có 376 trường đại học và cao đẳng (tăng 3,7 lần), trong đó 81 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, chiếm 21,5% (44 trường đại học và 37 trường cao đẳng).

c) Về thực hiện quy hoạch mạng lưới: Từ năm 1998 đến nay (12 năm) đã có 33 trường đại học được thành lập mới (2 trường công lập và 31 trường ngoài công lập); 54 trường đại học nâng cấp từ trường cao đẳng (51 trường đại học công lập và 3 trường đại học ngoài công lập). Cả nước có 35/63 tỉnh có thêm trường đại học mới, trong đó: 23 tỉnh có thêm 1 trường; 10 tỉnh có thêm 2 - 3 trường; riêng thành phố Hồ Chí Minh có thêm 18 trường đại học và Hà Nội (mở rộng) có thêm 23 trường, chiếm tỷ lệ 43% số trường đại học thành lập mới và nâng cấp.

d) Về cơ sở đào tạo sau đại học (bao gồm các trường đại học và viện nghiên cứu): Tính đến tháng 9/2009, cả nước có 159 cơ sở đào tạo sau đại học (71 viện nghiên cứu, chiếm 44,7% và 88 trường đại học, chiếm 55,3%), trong đó có 121 cơ sở đào tạo tiến sĩ và 100 cơ sở đào tạo thạc sĩ (trong đó có 4 trường đại học ngoài công lập được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ thạc sĩ).

Nhận xét về kết quả phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng:

- Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục huy động ngày càng nhiều.

- Hệ thống các cơ sở giáo dục đại học được phát triển đúng theo định hướng qui hoạch, phân bố trên phạm vi cả nước. Đến nay, đã có 40/63 tỉnh, thành phố có trường đại học (đạt tỷ lệ 63%); có 60/63 tỉnh, thành có trường cao đẳng (đạt tỷ lệ 95%) và có 62/63 tỉnh, thành có ít nhất 1 trường cao đẳng hoặc đại học (đạt tỷ lệ 98%, trừ tỉnh Đăknông chưa có trường đại học, cao đẳng nào).

- Số lượng trường đại học, cao đẳng ở các vùng cao, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đã tăng lên, như Tây Bắc (1 trường đại học, 8 trường cao đẳng); Tây Nguyên (3 trường đại học, 10 trường cao đẳng); đồng bằng sông Cửu Long (11 trường đại học, 27 trường cao đẳng), tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân có cơ hội tiếp cận với giáo dục đại học, nhất là ở khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa, miền núi, con em đồng bào dân tộc thiểu số.

- Các trường đại học, cao đẳng công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực (tổng quy mô đào tạo đại học, cao đẳng năm học 2008 - 2009 là 1.719.499 sinh viên, quy mô các trường công lập là 1.501.310 sinh viên, chiếm tỷ lệ 87,3%). Tổng số các đại học, cao đẳng công lập là 295, chiếm 78% tổng số đại học, cao đẳng cả nước.

- Các trường ngoài công lập phát triển nhanh về số lượng, năm 1997 có 15 trường đại học ngoài công lập, đến tháng 9/2009 có 81 trường (44 trường đại học và 37 trường cao đẳng ngoài công lập), tăng 5,8 lần. Quy mô đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập năm học 2008 - 2009 là 218.189 sinh viên, chiếm tỷ lệ 12,7% so với tổng số sinh viên.

- Các cơ sở đào tạo sau đại học trong nước đã và đang cung cấp nguồn nhân lực trọng yếu trình độ cao trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống xã hội, giữ vững an ninh và chủ quyền quốc gia. Phần lớn số tiến sĩ, thạc sĩ đào tạo trong nước là giảng viên, cán bộ nghiên cứu của các cơ sở đào tạo sau đại học và viện nghiên cứu. Số còn lại làm việc trong bộ máy quản lý nhà nước của các Bộ, ngành và địa phương.

Tuy nhiên, trong công tác thành lập trường, triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng theo Quyết định số 121 của Thủ tướng Chính phủ cũng còn bộc lộ những hạn chế là:

- Khoảng 20% trường đại học, cao đẳng (12 trường) được thành lập mới hoặc nâng cấp lên đại học từ năm 2005 trở lại đây chưa thực hiện đầy đủ các cam kết như trong Đề án khả thi thành lập trường và mở ngành tuyển sinh, chưa chuẩn bị đồng bộ 4 yếu tố về: đất đai xây dựng trường; đội ngũ giảng viên cơ hữu và thỉnh giảng; vốn đầu tư và các điều kiện đảm bảo chất lượng khác (chương trình đào tạo, thư viện, giáo trình, trang thiết bị thí nghiệm, ...).

- Chưa có quy định bắt buộc về kiểm tra thực tế các điều kiện cần thiết khi cho phép mở ngành đào tạo và tuyển sinh (chỉ kiểm tra dựa theo hồ sơ). Chế tài xử lý đối với các trường không thực hiện đúng cam kết về các điều kiện mở ngành và tuyển sinh chưa đủ mạnh. Chưa có quy định các trường phải xây dựng chuẩn năng lực người tốt nghiệp (chuẩn đầu ra) nên chưa có cơ sở đánh giá đúng chất lượng đào tạo. Hệ thống quản lý chất lượng trong giáo dục đại học chậm được hình thành (năm 2004 Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục mới được thành lập).

- Các trường đại học, cao đẳng vẫn tập trung chủ yếu ở 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 5 thành phố này có 102/150 trường đại học cả nước, chiếm 68% và có 184/276 trường đại học, cao đẳng cả nước, chiếm 49%. Riêng các trường cao đẳng, 5 thành phố có 82/226 trường, chiếm 36%.

1.2. Mở rộng quy mô đào tạo cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ

a) Về chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng: Năm 1987 số sinh viên tuyển mới là 34.110, năm 1997 là 123.969 (tăng 3,6 lần so với 1987), đến năm 2009 là 503.618 (tăng 4 lần so với năm 1997 và tăng 14,7 lần so với năm 1987);

Công bằng xã hội được thực hiện tốt hơn. Số con em diện chính sách, miền núi, dân tộc, vùng sâu, vùng xa được thu hút ngày càng đông vào các trường đại học và cao đẳng (bình quân 5 năm 2004 - 2008, tỷ lệ thí sinh trúng tuyển đại học, cao đẳng hệ chính quy có hộ khẩu thường trú tại vùng cao miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là 26,29%, số thí sinh là người dân tộc thiểu số đạt tỷ lệ 4,71% , số thí sinh từ khu vực nông thôn và miền núi là 64,5% và số thí sinh nữ là 51,6% so với tổng số thí sinh trúng tuyển).

b) Về quy mô đào tạo cao đẳng, đại học: Năm 1987 tổng số sinh viên là 133.136, năm 1997 là 715.231 (tăng 5,4 lần), năm 2009 là 1.719.499 (tăng 2,4 lần so với năm 1997 và gần 13 lần so với năm 1987);

Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng tăng dần qua các năm, tỷ lệ sinh viên/1 vạn dân cũng tăng, năm 1997 là 80 sinh viên/1 vạn dân, năm 2006 là 166,5 sinh viên/1 vạn dân, năm 2009 là 195 sinh viên/1 vạn dân, đến năm 2010 có thể đạt 200 sinh viên/1 vạn dân theo đúng định hướng Nghị quyết số 14 của Chính phủ và Quyết định số 121 của Thủ tướng Chính phủ. Nếu so với các nước, thì tỷ lệ sinh viên/1 vạn dân của Việt Nam còn rất thấp: năm 2005 Thái Lan có 374 sinh viên/1vạn dân; Chi Lê có 407 sinh viên/1 vạn dân, Nhật Bản có 316 sinh viên/1 vạn dân, Pháp có 359 sinh viên/1 vạn dân, Anh có 380 sinh viên/1 vạn dân, Úc có 504 sinh viên/1 vạn dân, Mỹ có 576 sinh viên/1 vạn dân và Hàn quốc có 674 sinh viên/1 vạn dân.

c) Số sinh viên tốt nghiệp: Năm 1987 có 19.900 sinh viên tốt nghiệp, năm 1997 có 73.736 (tăng 3,7 lần so với 1987) và năm 2009 có 222.665 (tăng 11 lần so với năm 1987); số sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

[...]