Báo cáo 116/BC-UBND về tình hình thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường năm 2011, năm 2012 và kế hoạch bảo vệ môi trường năm 2013 do thành phố Hồ Chí Minh ban hành

Số hiệu 116/BC-UBND
Ngày ban hành 13/08/2012
Ngày có hiệu lực 13/08/2012
Loại văn bản Báo cáo
Cơ quan ban hành Thành phố Hồ Chí Minh
Người ký Nguyễn Hữu Tín
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 116/BC-UBND

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 8 năm 2012

 

BÁO CÁO

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NĂM 2011, NĂM 2012 VÀ KẾ HOẠCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NĂM 2013

Thực hiện yêu cầu của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Công văn số 1046/BTNMT-KH ngày 06 tháng 4 năm 2012 về hướng dẫn xây dựng và dự toán ngân sách sự nghiệp môi trường năm 2013; Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh báo cáo như sau:

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH SỰ NGHIỆP MÔI TRƯỜNG NĂM 2011 - 2012

1. Đánh giá công tác chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường của thành phố trong năm 2011 và năm 2012:

- Công tác bảo vệ môi trường (BVMT) được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát, kịp thời của lãnh đạo thành phố; việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường của các cơ quan quản lý cấp thành phố và quận - huyện đã ngày càng chuyên sâu và đi vào nề nếp. Mức ngân sách chi cho công tác bảo vệ môi trường luôn cao hơn 1%.

Đơn vị tính: triệu đồng

Chỉ tiêu

Năm 2011

Năm 2012

Dự toán

Thực hiện

Dự toán

Thực hiện đến ngày 30/6/2012

Tổng chi ngân sách địa phương

35.797.370

55.527.435

42.809.870

39.234.114

Chi sự nghiệp môi trường

1.654.627

1.873.199

2.291.616

989.615

Tỷ lệ % chi Sự nghiệp môi trường/Tổng chi ngân sách địa phương

4,62

3,37

5,35

2,52

- Thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị - khóa VIII về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 12 tháng 6 năm 2009 của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường đã tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn thành phố. Cơ chế chính sách từng bước được hoàn thiện, tác động có hiệu quả đến công tác bảo vệ môi trường. Ủy ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo các Sở ngành khẩn trương xúc tiến việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể, xây dựng chương trình, kế hoạch bảo vệ môi trường; đặc biệt là đẩy nhanh việc di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm vào khu công nghiệp; góp phần giảm thiểu ô nhiễm trên địa bàn thành phố.

- Triển khai thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường; Tổ chức thực hiện tốt: Chương trình hành động của Thành ủy “Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX về chương trình giảm thiểu ô nhiễm môi trường giai đoạn 2011-2015”, Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ IX về chương trình giảm ngập nước giai đoạn 2011- 2015, Chỉ thị số 13/2006/CT-UBND ngày 14 tháng 4 năm 2006 về tăng cường công tác kiểm tra giám sát và xử lý đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường cần phải di dời và các cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường được phép xử lý ô nhiễm tại chỗ; tiếp tục triển khai Quyết định số 200/2004/QĐ-UB ngày 18 tháng 8 năm 2004 về việc công bố các danh sách các ngành nghề sản xuất, kinh doanh không cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, không cấp mới hoặc điều chỉnh giấy phép đầu tư trong khu dân cư tập trung.

- Triển khai hưởng ứng các hoạt động tuyên truyền về môi trường như: Giờ Trái đất, Ngày Trái đất (22/4), Tuần lễ Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường (29/4 - 06/5), Ngày Đa dạng sinh học (22/5), Ngày Môi trường Thế giới (5/6), Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn (19/9); tổ chức các lớp tập huấn tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường.

2. Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ, dự án bảo vệ môi trường và tình hình chi ngân sách sự nghiệp môi trường năm 2011 và 2012:

2.1. Công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức cng đồng:

Năm 2011, thành phố đã tiếp tục triển khai các chương trình liên tịch bảo vệ môi trường phục vụ phát triển bền vững giữa các cấp Sở - ngành, Ủy ban mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội; triển khai các hoạt động giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường với nhiều hình thức đa dạng như tập huấn, sinh hoạt chuyên đề, tổ chức hội thảo, hội thi, tổ chức lễ phát động hưởng ứng các sự kiện lớn về môi trường, cung cấp tài liệu tuyên truyền cho lực lượng tuyên truyền viên nòng cốt. Qua đó, ý thức về bảo vệ môi trường của các cán bộ công chức, hội viên các đoàn thể và nhân dân đã có sự chuyển biến tích cực. Chủ trương và chỉ đạo của thành phố đã nhanh chóng được triển khai, phổ biến đến các quận - huyện, phường - xã, thị trấn. Các quận - huyện, các đoàn thể đã tổ chức nhiều đợt tập huấn, hội thi, các đợt ra quân tổng vệ sinh và tuyên truyền đến người dân về trách nhiệm bảo vệ môi trường, góp phần nhắc nhở và tạo thói quen tốt cho cộng đồng dân cư trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường. Vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng được quan tâm và thu hút được sự tham gia của cộng đồng, điển hình là ngày càng nhiều các mô hình bảo vệ môi trường tại địa phương được hình thành, phát triển và đạt được hiệu quả cao như mô hình khu phố không rác, mô hình Câu lạc bộ phụ nữ tham gia bảo vệ môi trường, mô hình khu nhà trọ xanh sạch đẹp… ; đồng thời triển khai nhân rộng mô hình khu phố không rác trên địa bàn thành phố.

Trong năm 2012, thành phố tiếp tục đẩy mạnh các chương trình liên tịch phối hợp hành động bảo vệ môi trường với các đoàn thể, nâng cao chất lượng của các mô hình bảo vệ môi trường tại địa phương, đồng thời đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nhằm đưa thông tin đến với nhân dân một cách sinh động và hiệu quả hơn. Công tác tuyên truyền sẽ được thực hiện theo những trọng tâm trong chương trình giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường giai đoạn 2011-2015 mà Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX đã đề ra.

2.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường:

Xem xét tăng thêm biên chế phụ trách lĩnh vực môi trường cho các phường - xã, thị trấn nhằm đáp ứng yêu cầu trong công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực môi trường trên địa bàn thành phố.

2.3. Kiểm tra, xử lý ô nhiễm môi trường:

Đến nay việc triển khai thực hiện Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ như sau:

- 14 cơ sở đã được rút tên vì đã hoàn thành công tác khắc phục và xử lý ô nhiễm môi theo quy định (Nhà máy sữa Trường Thọ, Nhà máy sữa Thống Nhất, Công ty cổ phần giấy Vĩnh Huê, Công ty may Thành Công, Công ty dệt Phong Phú, Công ty TNHH một thành viên kỹ nghệ súc sản Vissan, Công ty liên doanh TNHH tôn Posvina, Công ty dệt Phước Long, DNTN bột giấy Nguyễn Thị Hòa, Công ty TNHH nhuộm Đông Anh, Công ty cổ phần giấy Linh Xuân, Công ty TNHH Việt Thắng Jean, Nhà máy thép Nhà Bè, Nhà máy bia Sài Gòn);

- 10 cơ sở đã di dời, ngưng hoạt động (Xí nghiệp chăn nuôi heo 3/2, Xí nghiệp chăn nuôi heo Phước Long, Công ty nhuộm dệt len Việt Phó, Công ty liên doanh Maruviena, Xi măng Quân khu 7, Nhà máy thuốc lá Vĩnh hội, Công ty dệt kim Đông Phương, Nhà máy thuốc lá Sài Gòn, Xí nghiệp da Bình Lợi, Xí nghiệp Cofidec);

- 11 cơ sở đã hoàn tất việc xử lý ô nhiễm triệt để (Nhà máy thép Tân Thuận, Bãi rác Đông Thạnh, Bãi rác Gò Cát, Nhà máy lưới thép Bình Tây, Công ty đúc số 1, Công ty cổ phần giấy Viễn Đông, Công ty dệt may Đông Á, Nhà máy phân bón Bình Điền, Bệnh viện 7A, Công ty may Thắng Lợi, Công ty Nipponvina);

- 02 cơ sở đã khắc phục ô nhiễm nhưng chưa triệt để (Nhà máy xi măng Hà Tiên, Nhà máy đóng tàu Ba Son). Hai đơn vị chưa khắc phục triệt để là do đặc thù ngành nghề; thành phố đã phối hợp với các Bộ chủ quản để có kế hoạch di dời theo quy hoạch.

2.4. Công tác bảo vệ và phục hồi cảnh quan lưu vực sông:

Trên địa bàn thành phố có khoảng 3.000 km sông, kênh rạch. Hiện nay việc quản lý các sông, kênh rạch được phân cấp cho nhiều cơ quan chức năng trực thuộc Trung ương và thành phố thực hiện (Bộ Giao thông vận tải, Sở Giao thông vận tải, Trung tâm Điều hành chương trình chống ngập nước, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

Ngoài dự án Đại lộ Đông - Tây cơ bản đã hoàn thành phần cơ sở hạ tầng ven kênh Tàu Hũ - Bến Nghé, Thành phố đang tiếp tục triển khai dự án cải thiện môi trường nước tại các lưu vực: Tân Hóa - Lò Gốm, Nhiêu Lộc - Thị Nghè, Tàu Hũ - Bến Nghé - Đôi - Tẻ. Các dự án này khi hoàn thành sẽ góp phần rất lớn vào việc cải thiện tình hình ô nhiễm môi trường nước trên địa bàn thành phố, phục hồi cảnh quan ven bờ, đặc biệt là tại các quận nội thành.

Bên cạnh đó, thành phố hiện đang triển khai thi công dự án tiêu thoát nước và cải thiện ô nhiễm kênh Tham Lương - Bến Cát - rạch Nước Lên; nhiệm vụ của dự án này là tiêu thoát nước, chống ngập úng cho khu vực rộng 14.900 ha đất nông nghiệp và khu dân cư, góp phần cải thiện tình hình ô nhiễm, kết hợp giao thông thủy trên các tuyến kênh hiện có. Đồng thời, thành phố cũng đã triển khai nhiều đợt nạo vét, vớt rác bồi lấp gây ô nhiễm môi trường kênh rạch tại một số khu vực.

[...]