Rằm tháng 2 lớn không? Rằm nào lớn nhất trong năm?
Nội dung chính
Rằm tháng 2 lớn không? Rằm nào lớn nhất trong năm?
Rằm tháng 2 còn gắn liền với sự kiện Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn (năm 544 TCN), nên tại các chùa thường tổ chức nhiều nghi lễ trang nghiêm, thu hút đông đảo Phật tử tham gia. Người dân cũng thường chuẩn bị các món chay để dâng lên cúng Phật và tổ tiên, thể hiện lòng thành kính, biết ơn của con cháu và cầu mong một năm an lành, may mắn.
Trong văn hóa Việt Nam, các ngày rằm (ngày 15 âm lịch) có tầm quan trọng khác nhau. Rằm tháng 2 là một ngày lễ có ý nghĩa, nhưng không phải là ngày rằm lớn nhất trong năm.
Những ngày rằm được xem là quan trọng nhất trong năm bao gồm:
Rằm tháng Giêng (Tết Nguyên Tiêu) – Đây là rằm lớn nhất trong năm, được xem là ngày lễ quan trọng sau Tết Nguyên Đán. Người ta tin rằng "Cúng cả năm không bằng Rằm tháng Giêng", nên vào ngày này, nhiều gia đình tổ chức cúng lễ lớn, đi chùa cầu bình an.
Rằm tháng Tư (Lễ Phật Đản) lại là ngày vô cùng quan trọng trong Phật giáo, kỷ niệm sự ra đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Các chùa tổ chức lễ tắm Phật, tụng kinh và cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.
Rằm tháng Bảy (Vu Lan – Báo Hiếu, Xá Tội Vong Nhân) mang ý nghĩa kép: vừa là ngày tri ân, báo hiếu cha mẹ, tổ tiên, vừa là dịp làm lễ cúng cô hồn để cầu siêu cho những linh hồn không nơi nương tựa.
Rằm tháng Mười (Tết Hạ Nguyên) tuy không phổ biến như ba rằm trên, nhưng vẫn mang ý nghĩa tạ ơn trời đất, kết thúc mùa vụ và cầu mong cuộc sống ấm no.
Trên đây là nội dung Rằm tháng 2 lớn không? Rằm nào lớn nhất trong năm?
Lưu ý: Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo!
Rằm tháng 2 lớn không? Rằm nào lớn nhất trong năm? (Hình từ Internet)
Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không?
Căn cứ vào khoản 5 Điều 6 nbquy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người:
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
2. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo.
3. Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
4. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.
5. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
6. Chính phủ quy định chi tiết việc bảo đảm thực hiện các quyền quy định tại khoản 5 Điều này.
Theo đó, người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
Bên cạnh đó, theo Điều 4 Nghị định 95/2023/NĐ-CP thì việc sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của người bị tạm giữ, người bị tạm giam được thực hiện như sau:
- Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là người bị quản lý, giam giữ) được sử dụng kinh sách xuất bản dưới hình thức sách in, phát hành hợp pháp để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân và được bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo bằng lời nói hoặc hành vi của cá nhân theo quy định của pháp luật về nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là cơ sở quản lý, giam giữ).
- Việc sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của người bị quản lý, giam giữ tại cơ sở quản lý, giam giữ không được làm ảnh hưởng đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác và không trái với quy định của pháp luật có liên quan.
- Việc bảo đảm và quản lý kinh sách; thời gian, địa điểm sử dụng kinh sách và bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo cho người bị quản lý, giam giữ tại cơ sở quản lý, giam giữ được thực hiện theo nội quy, quy chế của cơ sở quản lý, giam giữ. Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn cụ thể việc ban hành nội quy, quy chế của cơ sở quản lý, giam giữ thuộc phạm vi quản lý.