Mẫu 5 bài văn nghị luận hãy trình bày ý nghĩa của tri thức đối với cuộc sống của chúng ta
Nội dung chính
Mẫu 5 bài văn nghị luận hãy trình bày ý nghĩa của tri thức đối với cuộc sống của chúng ta
Dưới đây là 5 bài văn nghị luận trình bày ý nghĩa của tri thức đối với cuộc sống từ nhiều góc độ khác nhau:
Bài văn nghị luận số 1: Tri thức – Chìa khóa mở ra cánh cửa thành công
Tri thức từ lâu đã được xem là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Trong thế giới hiện đại, nơi mà công nghệ và khoa học không ngừng tiến bộ, tri thức càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Trước hết, tri thức giúp con người có thể làm chủ cuộc sống và vươn tới thành công. Khi có kiến thức, ta có thể giải quyết vấn đề một cách khoa học, đưa ra quyết định đúng đắn và phát triển bản thân theo hướng tích cực. Một người có học vấn, có tri thức không chỉ dễ dàng tìm kiếm công việc tốt mà còn có khả năng sáng tạo, đóng góp cho xã hội.
Bên cạnh đó, tri thức cũng là yếu tố quyết định sự phát triển của một quốc gia. Những nước có nền giáo dục tiên tiến, coi trọng tri thức như Nhật Bản, Mỹ, Đức đều trở thành cường quốc kinh tế. Ngược lại, những quốc gia ít đầu tư vào tri thức thường tụt hậu và gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập.
Tuy nhiên, tri thức chỉ thực sự có giá trị khi con người biết vận dụng nó một cách hiệu quả. Một số người có kiến thức nhưng không biết áp dụng vào thực tiễn hoặc sử dụng sai cách, gây ra những hậu quả tiêu cực. Do đó, học tập không chỉ là tiếp thu kiến thức mà còn phải biết cách sử dụng chúng để làm đẹp cho cuộc đời.
Tóm lại, tri thức là chìa khóa giúp con người làm chủ cuộc sống và đưa đất nước phát triển. Mỗi người trẻ hãy không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.
Bài văn nghị luận số 2: Tri thức – Ánh sáng dẫn đường cho con người
Trong hành trình phát triển của nhân loại, tri thức luôn đóng vai trò như ngọn đèn soi sáng, giúp con người vượt qua bóng tối của sự ngu dốt và lạc hậu.
Tri thức là nền tảng giúp con người hiểu biết về thế giới xung quanh, từ đó có thể thích nghi và phát triển. Nhờ tri thức, con người có thể khám phá những bí ẩn của vũ trụ, phát minh ra những công nghệ tiên tiến và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nếu không có tri thức, nhân loại vẫn sẽ chìm trong bóng tối của sự mông muội, không thể có được những thành tựu vĩ đại như ngày nay.
Không chỉ giúp con người chinh phục tự nhiên, tri thức còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh. Một xã hội có dân trí cao là một xã hội có sự tiến bộ, dân chủ và ít bất công. Những quốc gia có nền giáo dục phát triển đều có mức sống cao hơn, hệ thống y tế tốt hơn và tỉ lệ tội phạm thấp hơn so với những nơi lạc hậu về tri thức.
Tuy nhiên, tri thức không phải là thứ có sẵn mà cần phải được rèn luyện, tìm tòi và tích lũy không ngừng. Nếu không biết cách học hỏi và tiếp thu tri thức, con người sẽ tự giới hạn khả năng phát triển của chính mình.
Như vậy, tri thức chính là ánh sáng dẫn lối cho con người đến với một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hãy coi việc học tập là một hành trình suốt đời để có thể làm chủ vận mệnh của mình.
Bài văn nghị luận số 3: Tri thức – Sức mạnh thay đổi thế giới
Nhìn lại lịch sử nhân loại, ta có thể thấy rằng mọi sự phát triển vượt bậc của thế giới đều bắt nguồn từ tri thức. Từ những phát minh vĩ đại như điện, máy tính, Internet đến những tiến bộ trong y học và kỹ thuật, tất cả đều là thành quả của tri thức.
Tri thức là công cụ mạnh mẽ giúp con người cải thiện cuộc sống. Nhờ tri thức, con người có thể sáng chế ra những công nghệ hiện đại phục vụ đời sống, từ những thiết bị thông minh giúp kết nối thế giới cho đến những phương pháp chữa bệnh cứu sống hàng triệu người. Nếu không có tri thức, chúng ta vẫn sẽ sống trong thời kỳ nguyên thủy, bị thiên nhiên chi phối hoàn toàn.
Không chỉ dừng lại ở việc phát triển khoa học, tri thức còn có khả năng thay đổi tư duy và nhận thức của con người. Một người có tri thức sẽ có cái nhìn đúng đắn, biết phân biệt phải – trái, đúng – sai và không bị lừa gạt bởi những thông tin sai lệch. Điều này đặc biệt quan trọng trong thời đại công nghệ số, khi con người phải đối mặt với rất nhiều thông tin đa chiều.
Tuy nhiên, tri thức không phải là điều có thể đạt được trong một sớm một chiều mà cần có quá trình học tập kiên trì. Nếu con người lười biếng, không chịu học hỏi thì dù có sống trong một xã hội hiện đại, họ vẫn có thể bị tụt hậu.
Tóm lại, tri thức chính là sức mạnh giúp con người thay đổi thế giới. Mỗi cá nhân cần không ngừng học hỏi và sáng tạo để góp phần xây dựng một thế giới văn minh, tiến bộ hơn.
Bài văn nghị luận số 4: Tri thức giúp con người làm chủ bản thân và cuộc sống
Mỗi con người sinh ra đều có quyền lựa chọn con đường phát triển của riêng mình, nhưng để đạt được thành công và làm chủ cuộc sống, tri thức là yếu tố không thể thiếu.
Tri thức không chỉ giúp con người mở mang hiểu biết mà còn giúp họ làm chủ bản thân, sống có mục tiêu và định hướng rõ ràng. Một người có tri thức sẽ biết cách lập kế hoạch cho tương lai, tìm ra con đường phù hợp nhất để phát triển bản thân. Ngược lại, người thiếu hiểu biết thường dễ rơi vào trạng thái mơ hồ, không biết mình nên làm gì và đi về đâu.
Bên cạnh đó, tri thức còn giúp con người phát triển tư duy phản biện, biết cách đánh giá vấn đề một cách logic và khoa học. Khi có tri thức, ta sẽ không bị ảnh hưởng bởi những thông tin sai lệch, không bị chi phối bởi những định kiến vô lý trong xã hội.
Tuy nhiên, làm chủ tri thức không có nghĩa là học theo kiểu thụ động, mà quan trọng hơn là phải biết vận dụng vào thực tế. Tri thức chỉ thực sự có giá trị khi nó được ứng dụng để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Tóm lại, tri thức là công cụ giúp con người làm chủ vận mệnh của chính mình. Vì vậy, hãy luôn không ngừng học hỏi để hoàn thiện bản thân mỗi ngày.
Bài văn nghị luận số 5: Tri thức và đạo đức – Hai yếu tố tạo nên con người hoàn thiện
Tri thức là nền tảng của sự phát triển, nhưng tri thức chỉ thực sự có ý nghĩa khi đi đôi với đạo đức. Một con người hoàn thiện không chỉ cần có kiến thức mà còn phải có lòng nhân ái, biết sử dụng tri thức để phục vụ lợi ích chung.
Tri thức giúp con người phát triển về mặt trí tuệ, nhưng đạo đức giúp họ biết cách sử dụng tri thức một cách đúng đắn. Nếu một người có tri thức nhưng thiếu đạo đức, họ có thể lợi dụng hiểu biết của mình để làm điều xấu, gây hại cho xã hội. Ngược lại, một người có đạo đức nhưng không có tri thức sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, không thể phát huy hết tiềm năng của bản thân.
Do đó, một con người hoàn thiện phải biết cân bằng giữa hai yếu tố này. Học tập không chỉ là tiếp thu kiến thức mà còn là học cách sống đúng đắn, có trách nhiệm với bản thân và xã hội.
Như vậy, tri thức và đạo đức là hai yếu tố không thể tách rời. Mỗi cá nhân cần học tập không chỉ để làm giàu kiến thức mà còn để trở thành một người có ích cho xã hội.
Mẫu 5 bài văn nghị luận hãy trình bày ý nghĩa của tri thức đối với cuộc sống của chúng ta (Hình từ Internet)
Giáo viên dạy môn ngữ văn trường trung học cơ sở có được dạy thêm ngoài nhà trường?
Theo quy định tại Điều 6 Thông tư 29/2024/TT-BGDĐT về dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường như sau:
Dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường
1. Tổ chức hoặc cá nhân tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường có thu tiền của học sinh (sau đây gọi chung là cơ sở dạy thêm) phải thực hiện các yêu cầu sau:
a) Đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật;
b) Công khai trên cổng thông tin điện tử hoặc niêm yết tại nơi cơ sở dạy thêm đặt trụ sở về các môn học được tổ chức dạy thêm; thời lượng dạy thêm đối với từng môn học theo từng khối lớp; địa điểm, hình thức, thời gian tổ chức dạy thêm, học thêm; danh sách người dạy thêm và mức thu tiền học thêm trước khi tuyển sinh các lớp dạy thêm, học thêm (theo Mẫu số 02 tại Phụ lục kèm theo Thông tư này).
2. Người dạy thêm ngoài nhà trường phải bảo đảm có phẩm chất đạo đức tốt; có năng lực chuyên môn phù hợp với môn học tham gia dạy thêm.
3. Giáo viên đang dạy học tại các nhà trường tham gia dạy thêm ngoài nhà trường phải báo cáo với Hiệu trưởng hoặc Giám đốc hoặc người đứng đầu nhà trường (sau đây gọi chung là Hiệu trưởng) về môn học, địa điểm, hình thức, thời gian tham gia dạy thêm (theo Mẫu số 03 tại Phụ lục kèm theo Thông tư này).
Theo đó, việc dạy thêm ngoài nhà trường được các cá nhân, tổ chức có thu tiền học sinh phải thực hiện các yêu cầu theo quy định trên. Đồng thời, người dạy thêm ngoài nhà trường cũng phải đảm bảo các phẩm chức, đạo đức và năng lực chuyên môn của bản thân.
Ngoài ra, đối với các giáo viên đang dạy học tại các nhà trường tham gia dạy thêm ngoài nhà trường thì phải báo cáo với Hiệu trưởng về môn học, địa điểm, hình thức, thời gian tham gia dạy thêm.
Theo quy định tại Điều 4 Thông tư 29/2024/TT-BGDĐT về các trường hợp không được dạy thêm như sau:
Các trường hợp không được dạy thêm, tổ chức dạy thêm
1. Không tổ chức dạy thêm đối với học sinh tiểu học, trừ các trường hợp: bồi dưỡng về nghệ thuật, thể dục thể thao, rèn luyện kĩ năng sống.
2. Giáo viên đang dạy học tại các nhà trường không được dạy thêm ngoài nhà trường có thu tiền của học sinh đối với học sinh mà giáo viên đó đang được nhà trường phân công dạy học theo kế hoạch giáo dục của nhà trường.
3. Giáo viên thuộc các trường công lập không được tham gia quản lí, điều hành việc dạy thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường.
Như vậy, nếu giáo viên đang dạy môn ngữ văn tại trường trung học cơ sở thuộc các trường công lập sẽ không được tham gia quản lí, điều hành việc dạy thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường. Còn giáo viên đang dạy môn ngữ văn tại trường trung học cơ sở không thuộc trường công lập được tham gia quản lí, điều hành việc dạy thêm ngoài nhà trường nhưng có thể tham gia dạy thêm ngoài nhà trường.