Lương y như từ mẫu có nghĩa là gì? Lương y như từ mẫu thầy thuốc như mẹ hiền là câu nói của ai?
Nội dung chính
Lương y như từ mẫu có nghĩa là gì? Lương y như từ mẫu thầy thuốc như mẹ hiền là câu nói của ai? Lương y như từ mẫu là câu nói của ai?
lương y như từ mẫu là gì? Lương y như từ mẫu là một câu thành ngữ quen thuộc trong văn hóa Việt Nam, mang ý nghĩa ca ngợi và nhấn mạnh phẩm chất quan trọng của người thầy thuốc.
Câu nói này xuất phát từ tư tưởng y đức trong nền y học cổ truyền phương Đông, đặc biệt là từ những tấm gương thầy thuốc nổi tiếng như Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hay Tuệ Tĩnh. Họ không chỉ chữa bệnh mà còn hết lòng vì người nghèo, đặt chữ "đức" lên trên chữ "tài".
Trong y học hiện đại, câu nói này vẫn mang ý nghĩa quan trọng. Nghề y không chỉ là một công việc mà còn là một sứ mệnh cao cả, đòi hỏi người bác sĩ, y tá, dược sĩ phải có lòng nhân ái, tận tâm chăm sóc bệnh nhân, đặt sức khỏe và tính mạng con người lên hàng đầu.
Câu nói "Lương y như từ mẫu" được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng lần đầu trong Thư gửi Hội nghị Quân y vào tháng 3 năm 1948. Trong thư, Người viết:
Người ta có câu: 'Lương y kiêm từ mẫu', nghĩa là một người thầy thuốc đồng thời phải là một người mẹ hiền.
Sau đó, vào ngày 27 tháng 2 năm 1955, trong Thư gửi cán bộ Hội nghị Y tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô, các chú... 'Lương y phải như từ mẫu', câu nói ấy rất đúng.
Từ đó, câu nói này đã trở thành phương châm đạo đức cho ngành y tế Việt Nam, nhấn mạnh rằng người thầy thuốc phải có tấm lòng nhân hậu, chăm sóc bệnh nhân như chính người thân của mình.
Người kết luận: "Lương y phải như từ mẫu", nhấn mạnh trách nhiệm và đạo đức của người thầy thuốc. Đến ngày 6/2/1985, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quyết định lấy ngày 27/2 hằng năm làm Ngày Thầy thuốc Việt Nam.
Lương y như từ mẫu có nghĩa là gì? Lương y như từ mẫu thầy thuốc như mẹ hiền là câu nói của ai? Lương y như từ mẫu là câu nói của ai? (Ảnh từ Internet)
Nguyên tắc đăng ký hành nghề khám chữa bệnh được quy định như thế nào?
Căn cứ tại Điều 36 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 quy định về nguyên tắc đăng ký hành nghề như sau:
- Người hành nghề được đăng ký hành nghề tại nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng không được trùng thời gian khám bệnh, chữa bệnh giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
- Người hành nghề được đăng ký làm việc tại một hoặc nhiều vị trí chuyên môn sau đây trong cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng phải bảo đảm chất lượng công việc tại các vị trí được phân công:
+ Khám bệnh, chữa bệnh theo giấy phép hành nghề;
+ Phụ trách một bộ phận chuyên môn;
+ Chịu trách nhiệm chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
- Người hành nghề được khám bệnh, chữa bệnh mà không phải đăng ký hành nghề trong các trường hợp sau đây:
+ Hoạt động cấp cứu ngoài cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, trừ cấp cứu viên ngoại viện;
+ Được cơ quan, người có thẩm quyền huy động, điều động tham gia hoạt động khám bệnh, chữa bệnh trong trường hợp xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A hoặc tình trạng khẩn cấp;
+ Khám bệnh, chữa bệnh nhân đạo theo đợt;
+ Khám bệnh, chữa bệnh trong quá trình chuyển giao kỹ thuật chuyên môn, hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật ở cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác trong thời gian ngắn hạn;
+ Trường hợp khác theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Các trường hợp nào bị cấm hành nghề khám bệnh chữa bệnh?
Căn cứ tại Điều 20 Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 quy định về những trường hợp bị cấm hành nghề khám bệnh, chữa bệnh như sau:
- Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm pháp luật có liên quan đến chuyên môn kỹ thuật.
- Đang trong thời gian thi hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ về hành vi vi phạm pháp luật có liên quan đến chuyên môn kỹ thuật.
- Đang trong thời gian thử thách đối với người bị kết án phạt tù có liên quan đến chuyên môn kỹ thuật nhưng được tha tù trước thời hạn có điều kiện.
- Đang trong thời gian thi hành án phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Đang trong thời gian bị cấm hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo bản án hình sự có hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc bị hạn chế thực hiện hoạt động khám bệnh, chữa bệnh theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.