Khi viết về cuộc đời hoạt động của mình ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã lấy bút danh gì?

Khi viết về cuộc đời hoạt động của mình ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã lấy bút danh gì? Đặc điểm môn Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông là gì?

Nội dung chính

    Khi viết về cuộc đời hoạt động của mình ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã lấy bút danh gì?

    Khi viết về cuộc đời hoạt động của mình ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều bút danh khác nhau. Dưới đây là một số bút danh được Hồ Chí Minh sử dụng khi viết về cuộc đời hoạt động của mình ở nước ngoài:

    - Văn Ba, 1911

    - Paul Tất Thành, 1912

    - Tất Thành, 1914

    - Pôn Thành (Paul Thành), 1915

    - Nguyễn Ái Quốc, 1919

    - Phéc-đi-năng

    - An-be đơ PU-VUA-VIN (Anbert de POUVOURVILLE), 1920

    - Nguyễn A.Q, 1921-1926

    - CULIXE, 1922

    - N.A.Q, 1922

    - Ng.A.Q, 1922

    - Hăngri Trần (Henri Tchen), 1922

    - N, 1923

    - Cheng Vang, 1923

    - Nguyễn, 1923

    - Chú Nguyễn, 1923

    ...

    (Nội dung về "Khi viết về cuộc đời hoạt động của mình ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã lấy bút danh gì?" chỉ mang tính chất tham khảo)

    Khi viết về cuộc đời hoạt động của mình ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã lấy bút danh gì?

    Khi viết về cuộc đời hoạt động của mình ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã lấy bút danh gì? (Hình từ Internet)

    Thông qua đánh giá kết quả giáo dục môn Lịch sử giáo viên có thể nắm được những gì?

    Căn cứ Mục VII Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Lịch sử được ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT, được sửa đổi bởi Điều 2 Thông tư 13/2022/TT-BGDĐT như sau:

    ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC
    Mục đích đánh giá kết quả giáo dục lịch sử là xác định mức độ đáp ứng của học sinh đối với yêu cầu cần đạt về kiến thức và năng lực lịch sử ở từng chủ đề, từng lớp học, từ đó điều chỉnh hoạt động dạy - học nhằm đạt được mục tiêu của chương trình. Hoạt động đánh giá phải khuyến khích được sự say mê học tập, tìm hiểu, khám phá các vấn đề lịch sử của học sinh; giúp học sinh có thêm sự tự tin, chủ động sáng tạo trong học tập.
    Nội dung đánh giá cần chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo kiến thức lịch sử đã học trong những tình huống cụ thể, không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức lịch sử, thuộc lòng và ghi nhớ máy móc làm trọng tâm.
    Thông qua đánh giá, giáo viên có thể nắm được tình hình học tập, mức độ phân hóa về trình độ học lực của học sinh trong lớp, từ đó có biện pháp giúp đỡ học sinh chưa đạt yêu cầu về kiến thức, năng lực, phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về lịch sử, đồng thời điều chỉnh, hoàn thiện phương pháp giáo dục lịch sử.
    Về hình thức đánh giá, cần kết hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh; kết hợp kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành, dự án nghiên cứu; kết hợp đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận.

    Theo đó, thông qua đánh giá kết quả giáo dục môn Lịch sử giáo viên có thể nắm được tình hình học tập, mức độ phân hóa về trình độ học lực của học sinh trong lớp, từ đó có biện pháp giúp đỡ học sinh chưa đạt yêu cầu về kiến thức, năng lực, phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về lịch sử, đồng thời điều chỉnh, hoàn thiện phương pháp giáo dục lịch sử.

    Đặc điểm môn Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông là gì?

    Căn cứ Mục I Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Lịch sử được ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT, được sửa đổi bởi Điều 2 Thông tư 13/2022/TT-BGDĐT như sau:

    Lịch sử là môn học thuộc nhóm Khoa học xã hội, gồm 2 phần: phần bắt buộc đối với tất cả học sinh và phần lựa chọn cho học sinh chọn môn Lịch sử theo định hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ thông.

    Môn Lịch sử có sứ mệnh giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực lịch sử, thành phần của năng lực khoa học đồng thời góp phần hình thành, phát triển những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được xác định trong Chương trình tổng thể. Môn Lịch sử giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, giúp học sinh nhận thức và vận dụng được các bài học lịch sử giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống, phát triển tầm nhìn, củng cố các giá trị nhân văn, tinh thần cộng đồng, lòng khoan dung, nhân ái; góp phần hình thành, phát triển những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại.

    Môn Lịch sử hình thành, phát triển cho học sinh tư duy lịch sử, tư duy hệ thống, tư duy phản biện, kĩ năng khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu, nhận thức và trình bày lịch sử trong logic lịch đại và đồng đại, kết nối quá khứ với hiện tại.

    Môn Lịch sử giúp học sinh nhận thức được giá trị khoa học và giá trị thực tiễn của sử học trong đời sống xã hội hiện đại, hiểu biết và có tình yêu đối với lịch sử, văn hóa dân tộc và nhân loại; góp phần định hướng cho học sinh lựa chọn những nghề nghiệp như: nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, ngoại giao, quản lí, hoạt động du lịch, công nghiệp văn hóa, thông tin truyền thông,...

    Chương trình môn Lịch sử hệ thống hóa, củng cố kiến thức thông sử ở giai đoạn giáo dục cơ bản, đồng thời giúp học sinh tìm hiểu sâu hơn các kiến thức lịch sử cốt lõi thông qua các chủ đề, chuyên đề học tập về lịch sử thế giới, lịch sử khu vực Đông Nam Á và lịch sử Việt Nam. Phương pháp dạy học môn Lịch sử được thực hiện trên nền tảng những nguyên tắc cơ bản của sử học và phương pháp giáo dục hiện đại.

    Chuyên viên pháp lý Lê Thị Thanh Lam
    saved-content
    unsaved-content
    26