Hải Thượng Lãn Ông - Người thầy thuốc tài đức vẹn toàn
Nội dung chính
Cuộc đời của Hải Thượng Lãn Ông
Hải Thượng Lãn Ông, tên thật là Lê Hữu Trác (1724 - 1791), sinh ra tại làng Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, trong một gia đình danh giá. Ông sống trong giai đoạn đất nước đầy biến động, khi xã hội phong kiến đang trải qua những thay đổi lớn.
Tuy xuất thân trong gia đình khoa bảng, Lê Hữu Trác không theo đuổi con đường làm quan mà quyết định trở thành một thầy thuốc.
Ông chuyển đến Hương Sơn, Hà Tĩnh để sống ẩn dật và bắt đầu sự nghiệp y học của mình. Từ đó, cái tên "Hải Thượng Lãn Ông" xuất hiện, ghép từ địa danh Hải Thượng (Hà Tĩnh) và ý nghĩa "ông già lười" (ám chỉ sự nhàn hạ, tự tại của cuộc sống ẩn dật).
Hải Thượng Lãn Ông - Người thầy thuốc tài đức vẹn toàn (Hình từ Internet)
Di sản y học đồ sộ của Hải Thượng Lãn Ông
Hải Thượng Lãn Ông là tác giả của bộ sách y học đồ sộ "Hải Thượng y tông tâm lĩnh", gồm 66 quyển, chia thành 28 tập, được coi là tinh hoa của y học cổ truyền Việt Nam. Bộ sách không chỉ ghi lại các phương pháp chữa bệnh mà còn là một kho tàng tri thức về triết học, đạo đức y học và giáo dục nhân cách người thầy thuốc.
(1) Những đóng góp y học nổi bật:
Đặt nền móng cho y học cổ truyền Việt Nam thông qua các phương pháp chẩn đoán và điều trị toàn diện.
Nhấn mạnh việc kết hợp giữa y học và đạo đức, coi y đức là yếu tố cốt lõi trong nghề thầy thuốc.
Ghi chép chi tiết về hơn 500 vị thuốc và cách kết hợp dược liệu phù hợp với cơ địa người Việt.
(2) Triết lý y học của ông:
"Y học phải vì người bệnh": Hải Thượng Lãn Ông đề cao trách nhiệm của thầy thuốc trong việc chữa bệnh và cứu người.
Ông khuyến khích người thầy thuốc luôn học hỏi, tự rèn luyện và trau dồi kiến thức, tránh lối hành nghề vì lợi ích cá nhân.
Hải Thượng Lãn Ông - Biểu tượng của y đức và nhân cách
Không chỉ là một thầy thuốc tài năng, Hải Thượng Lãn Ông còn là biểu tượng của y đức và nhân cách cao đẹp. Ông luôn đối xử với bệnh nhân bằng lòng nhân ái, không phân biệt giàu nghèo hay địa vị xã hội.
(1) Lòng nhân ái:
Ông dành cả đời để chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, dù cuộc sống bản thân vô cùng giản dị và đạm bạc.
Lê Hữu Trác từng nói: "Thầy thuốc phải coi bệnh nhân như người thân trong nhà, lấy việc chữa lành bệnh làm niềm vui lớn nhất."
(2) Phong cách sống giản dị:
Hải Thượng Lãn Ông sống ẩn dật, tránh xa danh lợi. Ông chỉ tập trung vào việc nghiên cứu y học và hành nghề y, coi sự an nhiên tự tại là giá trị lớn lao nhất của cuộc đời.
Noi theo tấm gương của Hải Thượng Lãn Ông, người làm công tác y tế phải có y đức như thế nào?
Căn cứ Quy định về y đức ban hành kèm theo Quyết định 2088/BYT-QĐ năm 1996 quy định về y đức như sau:
- Chăm sóc sức khoẻ cho mọi người là nghề cao quý. Khi đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của Bác Hồ. Phải có lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc. Không ngừng học tập và tích cực nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn. Sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
- Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn. Không được sử dụng người bệnh làm thực nghiệm cho những phương pháp chẩn đoán, điều trị, nghiên cứu khoa học khi chưa được phép của Bộ Y tế và sự chấp nhận của người bệnh.
- Tôn trọng quyền được khám bệnh chữa bệnh của nhân dân. Tôn trọng những bí mật riêng tư của người bệnh; khi thăm khám, chăm sóc cần bảo đảm kín đáo và lịch sự. Quan tâm đến những người bệnh trong diện chính sách ưu đãi xã hội. Không được phân biệt đối xử người bệnh. Không được có thái độ ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và gây phiền hà cho người bệnh. Phải trung thực khi thanh toán các chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
- Khi tiếp xúc với người bệnh và gia đình họ, luôn có thái độ niềm nở, tận tình; trang phục phải chỉnh tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho người bệnh. Phải giải thích tình hình bệnh tật cho người bệnh và gia đình họ hiểu để cùng hợp tác điều trị; phổ biến cho họ về chế độ, chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của người bệnh; động viên an ủi, khuyến khích người bệnh điều trị, tập luyện để chóng hồi phục. Trong trường hợp bệnh nặng hoặc tiên lượng xấu cũng phải hết lòng cứu chữa và chăm sóc đến cùng, đồng thời thông báo cho gia đình người bệnh biết.
- Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời không được đun đẩy người bệnh.
- Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán và bảo đảm sử dụng thuốc hợp lý, an toàn; không vì lợi ích cá nhân mà giao cho người bệnh thuốc kém phẩm chất, thuốc không đúng với yêu cầu và mức độ bệnh.
- Không được rời bỏ vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử trí kịp thời các diễn biến của người bệnh.
- Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều trị, tự chăm sóc và giữ gìn sức khoẻ.
- Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia buồn và hướng dẫn, giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục cần thiết.
- Thật thà, đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
- Khi bản thân có thiếu sót, phải tự giác nhận trách nhiệm về mình, không đổ lỗi cho đồng nghiệp, cho tuyến trước.
- Hăng hái tham gia công tác tuyên truyền giáo dục sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh cứu chữa người bị tai hạn, ốm đau tại cộng đồng; gương mẫu thực hiện nếp sống vệ sinh, giữ gìn môi trường trong sạch.