Thông tư liên tịch 3-TT/LB năm 1986 về định mức lao động, mức chi phí tiền lương của đơn vị sản phẩm và kế hoạch hoá quỹ tiền lương đối với xí nghiệp do Bộ Lao động - Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước ban hành

Số hiệu 3-TT/LB
Ngày ban hành 22/02/1986
Ngày có hiệu lực 01/01/1986
Loại văn bản Thông tư liên tịch
Cơ quan ban hành Bộ Lao động,Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
Người ký Đào Thiện Thi,Hoàng Quy
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

 

THÔNG TƯ LIÊN TỊCH

CỦA BỘ LAO BỘ LAO ĐỘNG UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC BỘ LAO ĐỘNG UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC ĐỘNG - UỶ BAN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC SỐ 3-TT/LB NGÀY 22-2-1986 HƯỚNG DẪN VỀ ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG, MỨC CHI PHÍ TIỀN LƯƠNG CỦA ĐƠN VỊ SẢN PHẨM VÀ KẾ HOẠCH HOÁ QUỸ TIỀN LƯƠNG ĐỐI VỚI XÍ NGHIỆP

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá V), Nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng số 28-NQ/TƯ về giá - lương - tiền và các Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng, Chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số vấn đề cải tiến quản lý trong khu vực Nhà nước, liên Bộ Lao động - Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước hướng dẫn về định mức lao động, mức chi phí tiền lương của đơn vị sản phẩm, về kế hoạch hoá quỹ tiền lương đối với xí nghiệp sản xuất kinh doanh hạch toán độc lập như sau:

A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG,MỨC CHI PHÍ TIỀN LƯƠNG CỦA ĐƠN VỊ SẢN PHẨM VÀ XÂY DỰNG QUỸ LƯƠNG TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI:

1. Việc xây dựng định mức lao động và mức chi phí tiền lương của đơn vị sản phẩm tạo tiền đề để mỗi xí nghiệp, mỗi tập thể lao động thực hiện hạch toán hao phí lao động và tiền lương trong chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt mục tiêu năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhằm góp phần từng bước vững chắc hạ giá thành, tăng lợi nhuận, hoàn thành tốt nghĩa vụ tích luỹ đối với Nhà nước, ổn định và cải thiện chính đáng đời sống của người lao động trong đơn vị.

2. Những xí nghiệp không xây dựng mức chi phí tiền lương của sản phẩm thì thực hiện định mức biên chế và xây dựng quỹ lương theo định biên nhằm khuyến khích nâng cao chất lượng và hiệu suất, tinh giản biên chế hợp lý, hoàn thành đúng khối lượng và tiến độ kế hoạch với chất lượng cao.

3. Định mức lao động và mức chi phí tiền lương của sản phẩm hoặc định mức biên chế và quỹ lương theo định biên, do từng xí nghiệp tự xây dựng.

Xí nghiệp sẽ dùng vốn tự có và vay ngân hàng theo khả năng thanh toán để tự trang trải mọi chi phí về tiền lương của công nhân viên chức trong đơn vị bằng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chính mình. Vì vậy trong mức chi phí tiền lương của sản phẩm và quỹ lương, phải tính đủ các khoản mục phải chi về tiền lương trả cho công nhân viên chức. Đồng thời phải tính đúng các khoản mục đó để bảo đảm mức lợi nhuận của xí nghiệp tăng nhờ hạ giá thành không phải là dựa vào tăng định mức thời gian, tăng định mức biên chế, nâng cấp bậc công việc, nâng mức chi phí tiền lương từ giai đoạn xây dựng, mà do những nỗ lực chủ quan về cải tiến kỹ thuật, tổ chức và quản lý của xí nghiệp, của tập thể lao động. Loại trừ những chi phí tiêu cực, bất hợp lệ từ khi xây dựng định mức để góp phần không làm đổi giá thành và giá bán sản phẩm.

4. Thông qua sự phân cấp xét duyệt định mức lao động, mức chi phí tiền lương của sản phẩm và quỹ tiền lương của xí nghiệp, các cơ quan quản lý Nhà nước có căn cứ để xác định và tiến tới ổn định phần lợi nhuận và thuế mà xí nghiệp nộp ngân sách.

B. NHỮNG NỘI DUNG CỤ THỂ:

I. VỀ CHI TIÊU VÀ PHẠM VI TÍNH TOÁN ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG,MỨC CHI PHÍ TIỀN LƯƠNG VÀ KẾ HOẠCH QUỸ TIỀN LƯƠNG.

1. Chỉ tiêu khối lượng sản xuất kinh doanh bao gồm cả phần thuộc chỉ tiêu pháp lệnh và phần ngoài chỉ tiêu pháp lệnh.

Yêu cầu chung là tính khối lượng sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu hiện vật (hoặc hiện vật quy đổi). Trường hợp không thể tính theo chỉ tiêu hiện vật thì dùng chỉ tiêu giá trị. Cụ thể như sau:

- Đối với sản xuất công nghiệp, dùng chỉ tiêu khối lượng sản phẩm tính bằng đơn vị hiện vật (hoặc đơn vị hiện vật quy đổi) hoặc chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá, hoặc giá trị tổng sản lượng theo giá cố định.

- Đối với xây dựng cơ bản, dùng chỉ tiêu khối lượng công tác xây lắp hoặc giá trị sản lượng xây lắp tính theo giá dự toán kế hoạch, doanh thu khảo sát thiết kế...

- Đối với sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, dùng chỉ tiêu khối lượng sản phẩm, chỉ tiêu đơn vị diện tích, hoặc chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng theo giá cố định.

- Đối với vận tải, dùng chỉ tiêu khối lượng hàng hoá luân chuyển tính bằng tấn/km, hành khách/km, hoặc chỉ tiêu doanh thu vận tải. Đối với bốc xếp, dùng chỉ tiêu khối lượng hàng hoá thông qua tính bằng tấn cho từng loại hàng, hoặc chỉ tiêu doanh thu bốc xếp.

- Đối với bưu điện, dùng chỉ tiêu doanh thu nghiệp vụ bưu điện theo cơ cấu bưu và điện.

- Đối với thương nghiệp và cung ứng vật tư, dùng chỉ tiêu doanh số bán ra, (bán buôn, bán lẻ) theo từng ngành hàng theo giá kế hoạch. Đối với ăn uống dịch vụ, dùng chỉ tiêu giá trị sản phẩm thuần tuý, v.v...

2. Định mức lao động và mức chi phí tiền lương của sản phẩm xí nghiệp hoặc định mức biên chế và quỹ lương theo định biên của xí nghiệp tính đủ các loại lao động chính, phụ trợ phục vụ và lao động quản lý, kể cả lực lượng thường xuyên, học nghề và lực lượng hợp đồng có tham gia sản xuất sản phẩm tại xí nghiệp, không phân biệt hình thức trả lương theo sản phẩm hay trả lương theo thời gian.

Định mức lao động và mức chi phí tiền lương xây dựng riêng cho từng loại sản phẩm chính hoặc phụ. Lao động phụ trợ phục vụ đồng thời cho nhiều loại sản phẩm và lao động quản lý xí nghiệp phân bố hợp lý vào tất cả các loại sản phẩm trong và ngoài chỉ tiêu pháp lệnh được sản xuất tại xí nghiệp.

Trong xí nghiệp có nhiều loại hoạt động thuộc nhiều ngành kinh tế quốc dân khác nhau (sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản...) nhiều nguồn vốn khác nhau (quỹ sản xuất, vốn xây dựng cơ bản, quỹ sự nghiệp y tế, đào tạo tại trường cạnh xí nghiệp, quỹ Đảng, đoàn thể...) thì tính toán lao động và tiền lương riêng theo từng loại quỹ, không tính trùng lặp.

Trong mức chi phí tiền lương của mỗi loại sản phẩm, không tính trùng lặp những khoản chi phí đã tính vào các khoản mục khác của giá thành sản phẩm. Ví dụ tiền lương của sửa chữa lớn theo chế độ hiện hành tính vào khấu hao sửa chữa lớn thì không tính trong mức chi phí tiền lương của sản phẩm (hao phí lao động sửa chữa lớn không tính vào định mức lao động của sản phẩm...) và ngược lại nếu đã tính vào mức chi phí tiền lương thì ở những khoản mục khác của giá thành (kể cả trong giá mua nửa thành phẩm và nguyên vật liệu) không tính chi phí tiền lương nữa.

Mức chi phí tiền lương của sản phẩm dùng để lập kế hoạch quỹ lương của xí nghiệp, không sử dụng để làm đơn giá trả lương theo sản phẩm cho công nhân.

II. VỀ ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG CỦA SẢN PHẨM

a) Định mức lao động của sản phẩm xí nghiệp là một căn cứ tính toán mức chi phí tiền lương của sản phẩm, đánh giá trình độ năng suất lao động từng thời kỳ, kiểm tra số lao động tối đa của xí nghiệp có thể sử dụng để sản xuất sản phẩm.

b) Những nguyên tắc và phương pháp định mức lao động của sản phẩm áp dụng theo Thông tư số 26-LĐ/TT ngày 30-11-1982 của Bộ Lao động.Trước hết các giám đốc xí nghiệp và tập thể lao động chịu trách nhiệm rà soát những hình thức và phương pháp tổ chức sản xuất, tổ chức lao động từ các nơi làm việc, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sắp xếp hợp lý lao động nhằm tận dụng quỹ thời gian lao động theo chế độ. Trên cơ sở đó rà soát và bổ khuyết các định mức lao động và bậc công việc một cách hợp lý. Đặc biệt phải cùng với công đoàn làm cho các tập thể lao động hiểu rõ và đồng tình để sửa đổi những định mức, bậc công việc và đơn giá xây dựng tuỳ tiện trong 5, 6 năm gần đây mà nay không còn phù hợp. Chú trọng bố trí và phân công hợp lý lao động phụ trợ phục vụ. Thực hiện nghiêm chỉnh yêu cầu tinh giản biên chế hành chính và kết hợp từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ viên chức để xác định lao động quản lý.

Đi đôi với rà soát và bổ sung định mức lao động, phải rà soát và bổ sung cấp bậc công việc cho hợp lý theo đúng mức độ phức tạp của công việc.

c) Những nơi hoặc những bộ phận sản xuất chưa có điều kiện hoặc không có điều kiện làm định mức lao động của sản phẩm thì xây dựng định mức biên chế (số lượng và cấp trình độ của từng chức danh công nhân viên chức) cho từng khâu và toàn đơn vị theo kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. Định mức biên chế được xem xét và sửa đổi theo từng thời kỳ lập kế hoạch khi kế hoạch sản xuất kinh doanh có thay đổi lớn.

[...]