Thông tư liên Bộ 20-TT/LB năm 1978 công tác xây dựng cơ bản các công trình công nghiệp dân dụng của ngành nông nghiệp phục vụ nhiệm vụ trung tâm về phát triển nông nghiệp do Bộ Xây dựng-Bộ Nông nghiệp ban hành
Số hiệu | 20-TT/LB |
Ngày ban hành | 31/08/1978 |
Ngày có hiệu lực | 15/09/1978 |
Loại văn bản | Thông tư liên tịch |
Cơ quan ban hành | Bộ Nông nghiệp,Bộ Xây dựng |
Người ký | Nguyễn Xuân Lâm,Vũ Quý |
Lĩnh vực | Xây dựng - Đô thị |
BỘ NÔNG NGHIỆP-BỘ
XÂY DỰNG |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 20-TT/LB |
Hà Nội, ngày 31 tháng 08 năm 1978 |
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
Để thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ II và để thi hành nghị quyết của Hội đồng Chính phủ số 136-CP ngày 05/8/1976(1) về tăng cường tổ chức, phân công và cải tiến quản lý xây dựng, ngày 23 tháng 5 năm 1978 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã làm việc và thống nhất các quy định sau đây:
Sau khi đã thiết kế quy hoạch điểm dân cư nông nghiệp của các huyện điểm của trung ương, Bộ Xây dựng sẽ làm việc thống nhất với Bộ Nông nghiệp trước khi trình cấp trên xét duyệt thực hiện. Đối với huyện khác, do Ty, Sơ xây dựng phụ trách thiết kế xây dựng các điểm dân cư có Ty, Sở nông nghiệp địa phương hợp tác nghiên cứu thống nhất trước khi trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành xét duyệt.
Nếu là công trình xây dựng hàng loạt như các trạm, trại, kho, xưởng cho các hợp tác xã, xã, huyện, tỉnh, nông trường thì sẽ được thiết kế vỏ bao che định hình, thiết kế mẫu trên cơ sở dây chuyền công nghệ của ngành nông nghiệp đề ra. Các thiết kế định hình, thiết kế mẫu sẽ được liên Bộ Nông nghiệp – Xây dựng thống nhất ban hành, áp dụng trong cả nước. Các Sở, Ty nông nghiệp, xây dựng, sẽ căn cứ vào các thiết kế mẫu và thiết kế định hình để áp dụng. Trong quá trình vận dụng có thể được sửa đổi phần móng công trình cho phù hợp với điều kiện địa chất và phần bao che cho phù hợp với vật liệu địa phương trên nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến độ bền vững của công trình. Trường hợp muốn sửa đổi phần kiến trúc và dây chuyền sản xuất mà ảnh hưởng đến các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật xây dựng và công nghệ thì phải được Bộ Xây dựng và Bộ Nông nghiệp duyệt.
Đối với các công trình xây dựng không áp dụng thiết kế mẫu thì phân cấp như sau. Nếu là công trình trên hạn ngạch thì do Bộ Xây dựng trực tiếp thiết kế; và công trình dưới hạn ngạch do Ty, Sở Xây dựng thiết kế.
Trong hai năm 1976 – 1977 ngành nông nghiệp đã xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng của mình với giá trị sản lượng xây lắp 430 triệu đồng đạt 26% kế hoạch 5 năm, ba năm còn lại tuy khối lượng công việc còn nhiều gần gấp đôi nhưng để phục vụ nhiệm vụ trung tâm của Đảng và Nhà nước, mặt khác kết cấu công trình xây dựng không phức tạp, điều kiện cân đối vật tư vật liệu xây dựng hầu hết là vật tư vật liệu trong nước và tại chỗ, công trình xây dựng được phân bố trong cả nước có thể tận dụng lực lượng xây dựng tiềm tàng của trung ương, địa phương, nên hai Bộ nhất trí tích cực đẩy mạnh xây dựng thực hiện toàn bộ vốn đầu tư xây dựng còn lại. Bộ Nông nghiệp sẽ chịu trách nhiệm chỉ đạo làm đủ thủ tục về đầu tư; trên cơ sở đó Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm chỉ đạo thực hiện thiết kế và thi công xây lắp công trình công nghiệp và dân dụng của ngành nông nghiệp trong toàn quốc.
Ở trung ương cũng như ở địa phương ngành nông nghiệp sẽ là bên A làm chủ đầu tư các công trình xây dựng và chịu trách nhiệm về mọi thủ tục cho công tác đầu tư xây dựng như nhiệm vụ thiết kế, địa điểm xây dựng, kế hoạch vốn… trên cơ sở đó sẽ tiến hành hợp đồng với bên B là ngành xây dựng để thiết kế và xây dựng theo tiến độ mà hai bên đã thỏa thuận. Sau khi có đủ thủ tục để xây dựng công trình và sau khi đã ký hợp đồng với ngành xây dựng thì trách nhiệm thực hiện xây dựng công trình thuộc về ngành xây dựng, trong quá trình xây dựng công trình ngành nông nghiệp vẫn có trách nhiệm bên A để đôn đốc. Quy định này được thực hiện trong năm 1979 – 1980 để rút kinh nghiệm cho đến khi đã có thiết kế định hình được tiêu chuẩn hóa các công trình nông nghiệp thì chuyển sang chế độ ngành nông nghiệp không tổ chức ban kiến thiết mà chỉ ủy thác xây dựng toàn bộ công trình công nghiệp và dân dụng cho ngành xây dựng sau khi có nhiệm vụ thiết kế và kế hoạch vốn trong kế hoạch 1981 – 1985. Ngành nông nghiệp chỉ ký hợp đồng ủy thác xây dựng công trình cho ngành xây dựng một lần cho cả công tác thiết kế thi công công trình theo mẫu lựa chọn.
Theo ý kiến của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thì vốn đầu tư xây dựng cho các cơ sở nông nghiệp sẽ được đầu tư thẳng cho ngành nông nghiệp và do Bộ Nông nghiệp chủ động phân bố cho các đơn vị cơ sở của toàn ngành. Các đơn vị này sau khi đã có chỉ tiêu sẽ ký hợp đồng thẳng với các Ty, Sở xây dựng để trong năm 1979 – 1980 xây dựng hết diện tích nhà ở đã được Bộ Nông nghiệp phân bổ. Ngành nông nghiệp và ngành xây dựng hợp tác chặt chẽ để thực hiện được chỉ tiêu diện tích nhà ở 4 triệu m2 của nông trường và khu kinh tế mới vì đây là một mặt quan trọng thực hiện nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, mặt khác diện tích nhà ở nói trên nằm trong chỉ tiêu 14 triệu m2 nhà ở mà nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV đã đề ra.
Trên đây là những quy định đã được thống nhất giữa Bộ Nông nghiệp và Bộ Xây dựng để tăng cường và đẩy mạnh công tác xây dựng công nghiệp và dân dụng của ngành nông nghiệp trên cơ sở có phân công phân cấp quản lý theo ngành nhằm thực hiện kế hoạch vốn đầu tư, phục vụ phát triển nông nghiệp mà Đại hội Đảng lần thứ IV đã đề ra. Hai Bộ thông báo cho các Sở, Ty nông nghiệp – xây dựng và các đơn vị trực thuộc hai Bộ nhanh chóng và nghiêm túc triển khai thực hiện.
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP |
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ XÂY DỰNG |