HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
136-CP
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 08 năm 1976
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ TĂNG CƯỜNG TỔ CHỨC, PHÂN CÔNG QUẢN LÝ VÀ CẢI TIẾN QUẢN
LÝ XÂY DỰNG
Xây dựng là một ngành sản xuất
công nghiệp lớn, tổng hợp nhiều mặt và có liên quan đến nhiều ngành kinh tế,
văn hóa, khoa học, kỹ thuật, quốc phòng.
Xây dựng có kỹ thuật, kinh tế,
nghiệp vụ và đặc điểm riêng, phần lớn không giống các ngành sản xuất khác.
Từ năm 1955 đến nay, mặc dù hai
lần đế quốc Mỹ gây chiến tranh phá hoại ác liệt đối với miền Bắc, ngành xây dựng
đã từ chỗ hầu như chưa có gì,dần dần lớn lên, góp phần tạo ra một số cơ sở vật
chất và kỹ thuật quan trọng cho nền kinh tế quốc dân; vừa phục vụ chiến
tranh, vừa duy trì kinh tế và đời sống; đồng thời đã xây dựng được một đội ngũ
cán bộ, công nhân xây dựng của Nhà nước từ mấy nghìn người lên đến gần 40 vạn
ngưới (1975), đã được trang bị thêm máy móc và công cụ xây dựng.
Hiện nay, toàn bộ công tác xây dựng
của ta đang ở trình độ thấp, mâu thuẫn với yêu cầu ngày càng lớn của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước. Lực lượng của ngành xây dựng còn
quá yếu về mọi mặt, chưa bảo đảm xây dựng cơ bản vươn lên với tốc độ nhanh, xây
dựng khối lượng lớn, kỹ thuật ngày càng cao trong kế hoạch 5 năm 1976-1980 và
những năm sau.
Tình hình nói trên đòi hỏi Hội đồng
Chính phủ và các cấp chính quyền phải tăng cường chỉ đạo tốt công tác xây dựng.
Muốn đưa ngành xây dựng tiến lên quy mô lớn, nhịp độ nhanh, kỹ thuật ngày càng
hiện đại, đáp ứng các nhu cầu về xây dựng của xã hội ngày càng tăng nhanh, cần
phải giải quyết có hệ thống một loạt vấn đề mấu chốt về chính sách (chính sách
xây dựng, chính sách vật liệu xây dựng…), về tăng cường lực lượng trong xây dựng,
tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật trong xây dựng, tăng cường tổ chức
quản lý xây dựng về quy hoạch, về kế hoạch và những khâu quan trọng trong xây dựng
cơ bản (nhất là khâu chuẩn bị đầu tư và thực hiện nghiệm chỉnh các thủ tục
ban đầu về xây dựng cơ bản..).
Lần này, Hội đồng Chính phủ giải
quyết một số bước vấn đề tăng cường tổ chức, phân công quản lý và cải tiến quản
lý xây dựng, nhằm đạt mấy yêu cầu:
1. Thực hiện một cách đúng đắn định
mức việc tích tụ, chuyên môn hóa, hợp tác xã và liên hiệp trong xây dựng, trước
nhất là xây dựng dân dụng và công nghiệp. Kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành với
quản lý theo lãnh thổ trong xây dựng. Tạo điều kiện đưa ngành xây dựng tiến lên
quy mô lớn, thực hiện công nghiệp hóa xây dựng, đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật, áp
dụng những thành tựu về khoa học kỹ thuật xây dựng, nhằm đẩy mạnh tốc độ thi
công, nâng cao chất lượng công trình, sớm đưa công trường và sản xuất, sử dụng;
hạ giá thành xây dựng.
Tăng cường lực lượng xây dựng
ngày càng lớn mạnh, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ xây dựng ngày càng lớn, bảo đảm
thực hiện tốt kế hoạch Nhà nước hàng năm và kế hoạch dài hạn.
2. Cải tiến quản lý xây dựng để
sử dụng đến mức cao nhất khả năng tiềm tàng hiện có về xây dựng, đẩy mạnh xây dựng
được nhanh, nhiều, tốt, rẻ; thực hiện tốt phương thức kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, hạch toán kinh tế, khắc phục tình trạng hành chính, cung cấp, thực hiện
tiết kiệm, chống tham ô, lãnh phí trong xây dựng.
3. Tăng cường quản lý Nhà nước,
thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách luật pháp của Nhà nước trong xây dựng.
Trong khoảng 2-3 năm (1976,
1977, 1978), cần phải chỉ đạo thực hiện tết mấy vấn đề chính sau đây:
1. Tách tổ chức quản lý xây dựng
khối tổ chức quản lý sản xuất, lưu thông, phân phối (chung cả nước và trong mỗi
Bộ, Tổng cục chỉ đạo sản xuất, lưu thông, phân phối, đồng thời có làm xây dựng);
phải theo chế độ giao thầu, nhận thầu xây dựng, chuyên môn tổ chức xây dựng (đối
với các công trình công nghiệp, giao thông, đường dây điện, thủy lợi, nhà ở,
công trình công cộng ở đô thị, v.v…) và những khâu công tác quan trọng, kỹ thuật
cao, của xây dựng cơ bản.
2. Rất coi trọng việc tăng cường
tổ chức quản lý xây dựng ở địa phương (tỉnh, huyện, xã, thành phố, thị xã); chú
ý tăng cường tổ chức xây dựng ở khu vực (công ty, xí nghiệp, đội xây dựng…), hạn
chế giữ ở mức hợp lý việc điều động lực lượng xây dựng đi lưu động; phát huy
cao độ tiềm lực xây dựng sẵn có, tận dụng khả năng to lớn trong khu vực.
Chú ý tổ chức quản lý tập trung,
thống nhất lực lượng thi công cơ giới có kỹ thuật cao; quản lý khâu làm đất
chung cho các ngành ở từng vùng xây dựng; quản lý tập trung việc xây dựng kết cấu
hạ tầng của các khu vực công nghiệp, khu kinh tế mới đã được quy hoạch và có kế
hoạch xây dựng.
3. Thống nhất tổ chức quản lý sản
xuất, kinh doanh, cung ứng vật liệu xây dựng vào một đầu mối trong ngành xây dựng.
4. Tăng cướng tổ chức quản lý thống
nhất vật tư kỹ thuật, công cụ, thiết bị xây dựng, phục vụ tốt nhất, nhanh nhất
việc công xưởng hóa, cơ giới hóa xây dựng.
5. Tăng cường tổ chức quản lý
Nhà nước về xây dựng. Bảo đảm thống nhất quản lý Nhà nước đối với công tác xây
dựng về các mặt quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức,
quy trình, quy phạm, v.v… trong thiết kế, thi công xây lắp, sản xuất và cung ứng
vật liệu xây dựng, quản lý công cụ và thiết bị xây dựng, quản lý tổ chức cán bộ,
công nhân xây dựng, v.v…., thực hiện tốt kế hoạch Nhà nước về xây dựng.
6. Tăng cường tổ chức chuẩn bị đầu
tư để bảo đảm hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư.
I. PHÂN CÔNG
QUẢN LÝ XÂY DỰNG.
Bộ Xây dựng là cơ quan của Hội đồng
Chính phủ thống nhất quản lý toàn ngành xây dựng theo đúng các nghị định của Hội
đồng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và điều lệ tổ chức của Bộ Xây dựng. Bộ
Xây dựng cung cấp cần chú ý làm tốt chức năng Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước
trước đây và tập trung vào xây dựng những công trình công nghiệp, dân dụng và sản
xuất, phân phối vật liệu xây dựng. Ngành xây dựng được Nhà nước đầu tư để xây dựng
trước những công trình kết cấu hạ tầng ở từng khu vực có yêu cầu xây dựng, như:
san lấp mặt bằng, công trình kỹ thuật đô thị khác, v.v…, sau đó phân bố
chi phí xây dựng này, theo một cách tính toán hợp lý, cho mỗi mét vuông xây dựng
của các ngành ở khu vực đó.
Hiện nay có 17 Bộ và Tổng cục có
lực lượng thi công công trình công nghiệp và dân dụng với sản lượng xây lắp chiếm
hơn 14% khối lượng xây lắp chung của năm 1975. Các Bộ và Tổng cục nói trên có
thể tiếp tục tham gia xây dựng một số công trình công nghiệp và dân dụng cỡ nhỏ
và vừa của Bộ, Tổng cục (như xây dựng nhà ở, trụ sở, trường đào tạo công nhân,
kho tàng, mở rộng sản xuất, công trình dưới hạn ngạch…) theo nguyên tắc: căn cứ
vào kế hoạch Nhà nước, các Bộ và Tổng cục nói trên làm kế hoạch thi công xây lắp
với Bộ Xây dựng. và chịu sự quản lý thống nhất theo ngành về kinh tế, kỹ thuật,
nghiệp vụ xây dựng của Bộ Xây dựng.
1. Xây dựng công nghiệp.
- Bộ Xây dựng phụ tráchc xây dựng
các công trình công nghiệp: nhiệt điện, thủy điện vừa và lớn, cơ khí, luyện
kim, dầu khí, hóa chất, vật liệu xây dựng, công nghiệp nhẹ, chế biến lương thực
và thực phẩm…
- Bộ Điện và than thống nhất quản
lý Nhà nước về xây dựng các đương dây điện, trạm biến thế điện, kể cả điện cao
thế và hạ thế, về các mặt tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm kỹ thuật, kinh tế. Bộ
Điện và thanh trực tiếp xây dựng các đường điện cao thế và trạm biến thế. Các
ngành và các địa phương xây dựng đường dây diện hạ thế. Để đẩy mạnh xây dựng đường
dây điện hạ thế và trạm biến thế của các địa phương và của các ngành trung ương
ở trong lãnh thổ, các tỉnh có yêu cầu gửi về xây dựng điện được lập xí nghiệp
hoặc công ty chuyên xây dựng đường xây dựng đường dây điện, trạm biến thế.
Bộ điện và than tự xây dựng mỏ
than, một số công trình ở sân công nghiệp gắn liền với mỏ hầm lò, và xây dựng
đường giao thông vận tải chuyên trong hầm mỏ (Bộ Giao thông vận tải và Bộ Điện
và than ban việc phân công cụ thể)
Bộ Điện và than thống nhất quản
lý kinh doanh thiết bị, phụ kiện cho cả nước.
Bộ Cơ khí và kluện kim xây dựng
chuyên dùng các mỏ quặng; sửa chữa lớn các công trình sản xuất luyện kim và cơ
khí. Việc xây dựng mới các công trình cơ khí, luyện lim lâu dài giao cho ngành
chuyên xây dựng công nghiệp. Hiện nay Bộ Cơ khí và luyện kim có lực lượng xây dựng
tự xây dựng một phần, còn giao thầu xây dựng cho ngành xây dựng công nghiệp.
- Tổng cục Hóa chất xây dựng
chuyên dùng các mỏ quặng của ngành hóa chất; sửa chữa lớn các công trình hóa chất,
tham gia xây dựng một số công trình hóa chất (nhỏ hoặc vủa)
2. Xây dựng nông nghiệp, thủy lới,
lâm nghiệp
Các ngành kinh
tế đều phải tích cực tham gia xây dựng tốt nông nghiệp. Bộ Xây dựng quản lý thống
nhất về kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ xây dựng các công trường kiến trúc trong
nông nghiệp và trực tiếp đảm nhiệm xây dựng các công trình kiến trúc lớn, kỹ
thuật xây dựng xây dựng phức tạp. Các công trình kiến trúc loại vừa và nhỏ,
phân tán ở các nơi thì ngành xây dựng ở địa phương phụ trách xây dựng; ngành
nông nghiệp xây dựng các công trình cải tạo đồng ruộng, xây dựng đồng ruộng,
làm chức năng chủ quản (bên A) trong việc xây dựng các công trường nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp có lực lượng tự xây dựng một phần các công trình của Bộ. Các
nông trường, hợp tác xã… có đội xây dựng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
cơ sở.
- Bộ Thủy lợi xây dựng và quản
lý đê điều, công trình thủy lợi, công trình thủy điện nhỏ kết hợp với thủy lợi.
Đối với công trình thủy điện vùa và lớn. Bộ Điện và than phụ trách thiết kế phần
nhà máy phát điện, quản lý thiết bị điện, vận hành nhà máy điện của thủy điện
các loại. Bộ Thủy lợi thiết kế đập, nhân thi công công trình thủy điện nhỏ và cừa
cỡ 50.000 kW trở xuống. Việc xây dựng loại thủy điện lớn hơn sẽ do Chính phủ
quyết định cụ thể đối với từng công trình. Bộ Thủy lợi cần tiến lên làm chức
năng quản lý và kinh doanh toàn diện việc cung ứng nước cho kinh tế, cho đời sống
của nhân dân; xây dựng công trình giải quyết nước cho nông nghiệp đến khoảnh ruộng;
cho công nghiệp và đời sống nhân dân đô thị đến đài cao cung ứng nước.
Bộ Lâm nghiệp xây dựng chuyên
dùng các công trình thuộc các lâm trường, khu kinh tế lâm nghiệp, các kho bãi gỗ,
các cơ sở chế biến lâm sản, ngâm tẩm và sấy gỗ quy mô nhỏ, đường lâm nghiệp (đường
lâm nghiệp được sử dụng cho dân sinh, kinh tế, quốc phòng thì Bộ Giao thông vận
tải làm).
- Bộ Hải sản tổ chức thiết kế,
làm chức năng bên chủ quản (bên A) các công trình chuyên dùng của ngành, tổ chức
và quản lý mạng lưới các loại công trình của ngành.
3. Xây dựng giao thông, bưu điện,
truyền thanh.
- Bộ Giao thông vận tải xây dựng
chuyên dùng cảng biển, cảng sông, cầu đường sắt, đường bộ, làm chức năng quản
lý Nhà nước ngành xây dựng giao thông đối với các ngành khác và các địa phương.
Vộc xây dựng sân bay dân dụng do Bộ Quốc phòng đảm nhiệm.
- Tổng cục bưu điện xây dựng
chuyên dùng các công trình thông tin, quản lý thống nhất việc xây dựng các công
trình thông tin, truyền tin, thông tấn xã, phát thanh, truyền hình. Trên cơ sở
quy hoạch đã được Hội đồng Chính phủ duyệt, Tổng cục Bưu điện tổng hợp cân đối
dự án kế hoạch xây dựng và trang bị kỹ thuật mạng lưới các cơ sở thông tin liên
lạc trong cả nước theo sự phân công của Hội đồng Chính phủ (nghị định của Hội đồng
Chính phủ sô 68-CP ngày 8-4-1975)
- Tổng cục thông tin quản lý thống
nhất về việc quy hoạch, tiêu chuẩn kỹ thuật, kinh tế xây dựng các mạng lưới
truyền thanh ở nông thôn, đô thị, trong các công trường, xí nghiệp, khu nhà ở,
v.v… và tham gio với Tổng cục Bưu điện nghiên cứu quy hoạch phát triển mạng lưới
các cơ sở kỹ thuật thông tin, liên lạc, phát thanh, truyền thanh, truyền hình
trong cả nước.
Ngành xây dựng ở địa phương cùng
ngành thông tin giúp nhân dân và các xí nghiệp, công trường, cơ quan trong việc
xây dựng hệ thống truyền thanh.
4. Xây dựng các công trình về
lưu thông phân phối.
Bộ Vật tư xây dựng chuyên dùng
các kho xăng dầu, các đường ống dẫn dầu. Với xây dựng các kho tàng, cửa hàng của
các Bộ Nội thương, Ngoại thuơng, Lương thực và thực phẩm, Giao thông vận tải. Vật
tư chủ yếu là giao thầu cho ngành xây dựng. Các Bộ nói trên sử dụng lực lượng
hiện có của Bộ để tự xây dựng một phần kho tàng, cửa hàng theo nguyện tắc: căn
cứ vào kế hoạch Nhà nước, bàn thống nhất với Bộ Xây dựng, Ủy ban Nhà nước tỉnh
hoặc thành phố. Bộ Xây dựng làm nhiệm vụ quản lý thống nhất về kinh tế, kỹ thuật,
nghiệp vụ xây dựng.
5. Quy hoạch xây dựng đô thị,
nônng thôn và xây dựng nhà ở, công trình công cộng, công trình kỹ thuật đô thị
và các công trình khác không có tính chất sản xuất.
Bộ Xây dựng thống nhât quản lý
quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn và xây dựng nhà ở, công trình công cộng,
công trình kỹ thuật đô thị và các công trình khác không có tinh chất sản xuất.
Các địa phương vươn lên đảm nhiệm làm chủ đầu tư và thực hiện đầu tư xây dựng
nhà ở, công trình công cộng, công trình kỹ thuật đô thị và các công trình khác
không có tính chất sản xuất. Bộ Xây dựng đảm nhiệm xây dựng các công trình lớn,
kỹ thuật phức tạp, mà địa phương chưa làm được.
6. Các ngành khác ở trung ương
không có chức năng làm kinh tế chính không có lực lượng xây dựng, thì giao thầu
toàn bộ khối lượng xây dựng cho các tổ chức chuyên làm xây dựng. Nhưng mỗi
ngành phải kiện toàn tổ chức làm chức năng chủ quản đầu tư (cơ quan giao thầu).
Các Bộ được phân công làm xây dựng có trách nhiệm chỉ đạo các tổ chức xây dựng
nhận thầu cho các ngành nói trên. Riêng Bộ Đại học và trung học chuyên ngjhệp
được thành lập tổ chức chuyên nghiệp quản lý việc phát động lực lượng thầy giào
và hoc trò tham gia xây dựng, trước hết là tham gia với các tổ chức chuyên làm
xây dựng để xây dựng trường học, nhà ở, phòng thí nghiệm, v.v…
Các ngành trung ương, các xí
nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường và một số cơ quan, trường học lớn
có lực lượng sửa chữa các công trình của mình, hoặc tự làm một số công trình lặt
vặt không nơi nào nhận thầu.
Bộ Văn hóa có nhiệm vụ thống nhất
quy hoạch, tiêu chuẩn kỹ thuật, kinh tế về xây dựng mạng lưới công trình văn
hóa công cộng từ trung ương đến địa phương, tham gia xây dựng quy hoach, đề án
thiêt kế về kiến trúc đô thị, nông thôn để góp sức vào sự tiến bộ về thẩm mỹ và
nghệ thuật kiến trúc; sửa chữa các công trình văn hóa do trung ương quản lý, tu
bổ các di tích lịch sử (kể cả phần lắp đặt thiết bị chuyên dùng).
7. Tổ chức xây dựng trong mỗi Bộ,
Tổng cục
Thực hiện việc quản lý xây dựng
ra khỏi quản lý sản xuất, mỗi bộ, Tổng cục được phân công làm xây dựng nói trên
phải mau chóng kiện toàn tổ chức xây dựng; tránh tình trạng phân tán và có nhiệi
đầu mối xây dựng trong ngành, tăng nhanh hiệu lực thực hịện nhiệm vụ kế hoạch
Nhà nước về xây dựng; bảo đảm Bộ, Tổng cục làm tốt chứa năng quản lý Nhà nước về
xây dựng chuyên ngành.
Mỗi Bộ, Tổng cục có quản lý xây
dựng cần khẩn trương nghiên cứu kế hoạch, củng cố tổ chức quản lý công tác xây
dựng của Bộ, Tổng cục trình Thường vụ Hội đồng Chính phủ , trong đó phải chú ý
quy định rõ tổ chức của mấy mặt công tác xây dựng:
a) Tính toán đầu tư, chuẩn bị đầu
tư xây dựng cơ bản (vụ kế hoạch hoặc vụ, cục nào được Bộ, Tổng cục phân công).
b) Nghiên cứu kinh tế kỹ thuật
xây dựng (các viện hoặc phòng khảo sát, thiết kế, nghiên cứu khoa học xây dựng,
công cụ xây dựng….).
c) Quản lý kinh doanh xây dựng
(các công ty xây lắp, cung ứng vật tư, vật liệu xây dựng, quản lý thiết bị,
công cụ xây dựng, vận chuyển phục vụ xây dựng…).
d) Tổ chức làm chúc năng giúp Bộ,
Tổng cục chỉ đạo thống nhất công tác xây dựng một các toàn diện.
Thường vụ Hội đồng Chính phủ sẽ
quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và nguyên tắc làm việc của các tổ
chức chuuyên làm xây dựng ở các Bộ, Tổng cục, nhất là ở các Bộ làm khối lượng
xây dựng lớn như: Giao thông vận tải, Thủy lợi, Điện và than, Cơ khí và luyện
kim, v.v…
8. Hội đồng Chính phủ sẽ có quyết
định riêng về việc phân công lực lượng vũ trang làm công tác xây dựng.
II. TĂNG CƯỜNG
TỔ CHỨC QUẢN LÝ XÂY DỰNG Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG.
Chinh quyền có nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm về quản lý xây dựng như đã được vạch rõ trong nghị định số 24-CP
ngày 2-2-1976 (*).
Chính quyền địa phương lập quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn và quản lý công
tác xây dựng theo quy hoạch đó; tiến hành quản lý Nhà nước về xây dựng tại địa
phương (như giám định xây dựng, kiểm tra việc chấp hành các chính sách chế độ
xây dựng); tham gia kế hoạch hóa xây dựng trên lãnh thổ, chặt chỉ đạo lập kế hoạch
xây dựng của địa phương, góp ý kiến vào kế hoạch xây dựng của các ngành trung
ương xây dựng tại địa phương; chỉ đạo các tổ chức, các đơn vị xây dựng trực thuộc
thực hiện kế hoạch xây dựng của địa phương và nhận thầu xây dựng các công trình
củaa các ngành trung ương; xây dựng nông nghiệp, công nghiệp nhỏ, giao thông,
thủy lợi, lưu thông, phân phối, thông tin, truyền thanh; làm chủ đầu tư và thực
hiện về xây dựng nhà ở, công trình công cộng, công trình kỹ thuật đô thị (cả
trung ương và địa phương). Các ngành trung ương có lực lượng xây dựng cần
tích cự tham gia xây dựng công trình nhà ở, công trình công cộng, công trình kỹ
thuật đô thị với tư cách nhận thầu với chính quyền địa phương. Tỉnh, thành phố
quản lý việc cho thưê, thu tiền thuê nhà do Nhà nước quản lý, sửa chữa nhà ở,
công trình công cộng, sửa chữa công trình kỹ thuật độ thị (chủ đầu tư về sửa chữa).
Bộ Xây dựng chỉ đạo và đảm nhiệm xây dựng cac công trình lớn, kỹ thuật xây dựng
phức tạp, mà địa phương chưa làm được.
1. Chính quyền cấp tỉnh, thành
phố phải khẩn trương phát triển và cung cấp khuyến khích xây dựng lớn mạnh toàn
diện để bảo đảm nhiệm vụ xây dựng nói trên.
Mỗi tỉnh, thành phố cần hình thành
các tổ chức xây dựng chuyên ngành và phân công như sau:
Sở hoặc ty xây dựng (xây dựng
các công trình kiến trúc nông nghiệp, công trình công nghiệp dân dụng, lưu
thông, phân phối…); Sở hoặc ty giao thông, lưu thông xây dựng giao thông, Sở hoặc
ty thủy lợi sản xuất thủy lợi. Một số địa phương có yêu cầu về xây dựng và trạm
biến thế thì lập xí nghiệp xây dựng đường dây và trạm biến thế để xây dựng đường
dây cao thế và trạm biến thế 10kW, 6kW ở địa phương; xây dựng đường dây và trạm
biến thế hạ thế; kéo dây mắc điện trong nhà và sửa chữa điện; Bộ Điện và than
quản lý thống nhất thiết kế, ban hành, quy trình, quy phạm, cung ứng vật tư,
thiết bị điện, chỉ đạo kỹ thuật, nghiệp vụ. Các tỉnh có lâm trường, có mỏ
khoáng sản do địa phương quản lý có thể tổ chức lực lượng chuyên ngành để xây dựng
các công trình đó. Mỗi tỉnh, thành phố nghiên cứu tổ chức các công ty, xí nghiệp
xây dựng tổng hợp hoặc chuyên môn hóa (như công ty chuyên xây dựng nhà ở, công
trình công cộng, công trình kỹ thuật đô thị, v.v…), chung toàn tỉnh hoặc từng
vùng trong địa phương. Đồng thời chính quyền tỉnh, thành phố cần chú ý tổ chức
và tăng cường các cơ quan quản lý kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ xây dựng của địa
phương Bộ xây dựng và Ban tổ chức của Chính phủ cùng các ngành và các địa
phương có liên quan bàn đề án cụ thể về tổ chức xây dựng ở địa phương và điều
hòa cán bộ xây dựng giữa trung ương và địa phương, nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho tỉnh, thành phố hoàn chỉnh các tổ chức xây dựng ở địa phương.
Các công trình giao cho địa
phương xây dựng thuộc phạm vi và cân đối của kế hoạch Nhà nước, thì đều phải
ghi vào kế hoạch Nhà nước, được cân đối điều kiện thực hiện. Các lực lượng xây
dựng của địa phương phải chịu sự lãnh đạo chung toàn ngành của Bộ hoặc Tổng cục
về các mặt nghiệp vụ, kỹ thuật…, đồng thời chịu sự chỉ đạo trực tiếp về mội mặt
của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố. Chính quyền tỉnh, thành phố chủ động làm
quy hoạch kế hoạch xây dựng của địa phương, bao gồm khu vực Nhà nước, khu vực tập
thể, khu vực nhân dân; góp ý kiến vào kế hoạch xây dựng của các ngành trung
ương xây dựng trong địa phương; chỉ đạo Ty, Sở xây dựng quản lý tốt tổ chức xây
dựng trực thuộc tỉnh, quản lý và giao kế hoạch thi công cho các xí nghiệp xây dựng
ở huyện: thông qua cơ quan quản lý xây dựng ở cấp huyện mà quản lý các đội xây
dựng ở hợp tác xã nông nghiệp, các hợp tác xã xây dựng, các tổ chức nhận thầu
xây dựng của tư nhân. Ty, Sở thủy lợi thông qua cơ quan thủy lợi ở cấp huyện mà
quản lý và chỉ đạo các đội thủy lợi ở hợp tác xã nông nghiệp, chỉ đạo lực lượng
nhân dân làm thủy lợi. Ty, Sở xây dựng quản lý và chỉ đạo đội xây dựng huyện,
xã, hợp tác xã về các mặt nghiệp vụ, kỹ thuật xây dựng.
2. Chính quyền cấp huyện trở
thành cấp quản lý kinh tế, quản lý sản xuất, quản lý kinh doanh…, phải tổ chức
để làm tròn chức năng quản lý xây dựng trong địa phương.
Cấp này ngày càng quan trọng vì
có trách nhiệm chỉ đạo xây dựng công trình kiến trúc nông nghiệp, dân dụng
trong huyện; chỉ đạo công tác xây dựng ở nông thôn, xã, thị trấn, huyện lỵ; xây
dựng và quản lý sản xuất vật liệu xây dựng, lao động, lương thực, thực phẩm, vận
chuyển phục vụ xây dựng, bảo vệ trị an ở nơi xây dựng…, chỉ đạo các tổ chức xây
dựng trực thuộc huyện, nhận thầu xây dựng một số công việc của tỉnh hoặc trung
ương ở trong huyện; quản lý Nhà nước về xây dựng trong lãnh thổ huyện (quản lý
thực hiện theo quy hoạch), điều hòa, phối hợp các đơn vị xây dựng trong huyện.
Chính quyền tỉnh, thành phố căn
cứ vào yêu cầu xây dựng ở từng huyện, khả năng cụ thể và đặc điểm xây dựng ở một
mỗi huyện, mà quy định thành phòng xây dựng hoặc tổ cán bộ quản lý xây dựng ở cấp
huyện. Cần tăng cường cán bộ đại học, trung học và cán bộ có kinh nghiệm về xây
dựng cho huyện. Những huyện có nhu cầu và có điều kiện thực hiện, được lập những
xí nghiệp, những đội xây dựng chuyên xây dựng theo nhiệm vụ nói trên của huyện,
sẵn sàng chịu sự điều động của tỉnh và trung ương đi làm xây dựng ở nơi cần thiết
khác, hoặc bổ sung lao động xây dựng cho tỉnh và trung ương,
3. Chính quyền các thị xã (tỉnh
lỵ), khu phố của các thành phố trực thuộc trung ương tổ chức và tăng cường
phòng xây dựng làm nhu cầu giúp đỡ chính quyền địa phương quản lý xây dựng thị
xã, khu phố. Phòng xây dựng cần tập trung vào viêc quản lý sửa chữa nhà ở, công
trình phúc lợi công cộng, công trình kỹ thuật, chỉ đạo sản xuất một số vật
liệu xây dựng (nhưng không trực tiếp kinh doanh); chỉ đạo một số hợp tác xã
chuyên xây dựng và tổ chức; chỉ đạo một số đội sửa chữa, đội xây dựng nhận thầu
xây dựng một số công trình loại nhỏ (do chính quyền tỉnh, thành phố giao); quản
lý thực hiện luật lệ xây dựng, quản lý xây dựng theo quy hoạch.
4. Chính quyền cấp xã có nhiệm vụ
quản lý xây dựng (như quy hoạch xây dựng xã, chấp hành nghiêm chỉnh chính sách,
chế độ, thể lệ xây dựng, sử dụng tiết kiệm đất xây dựng, v.v…) trong xã; chỉ đạo
xây dựng nhà ở, công trình dân dụng (trường học, trạm xá, hội trường, nhà giữ
trẻ,…) quản lý sản xuất vật liệu xây dựng ở xã; quản lý thợ xây dựng (thợ nề,
thợ mộc…) trong xã; cung ứng vật liệu xây dựng, lao động xây dựng; động viên lực
lượng của xã tham gia xây dựng các công trình của cấp trên (huyện, tỉnh, trung
ương) ở trong xã hoặc ở nơi lân cận.
Mỗi xã phân công một phó chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã phụ trách công tác xây dựng, chú trọng chỉ đạo việclập quy
hoạch xã (thủy lợi. giao thông, xây dựng trường học, bệnh xá, trụ sở…).
Hợp tác xã nông nghiệp lập đội
xây dựng để xây dựng cơ sở vật chất cho hợp tác xã, cho xã, xây dựng nhà ở cho
xã viên; khi cần thì tham gia xây dựng với huyện, tỉnh, trung ương. Bộ Xây dựng
cùng với Bộ Nông nghiệp hướng dẫn về chính sách, chế độ đối với xã viên vào đội
xây dựng.
5. Quan hệ giữa chính quyền địa
phương và các ngành trung ương trong công tác xây dựng.
- Chính quyền địa phương làm tốt
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản lý Nhà nước (đã được luật pháp quy định)
trong việc làm quy hoạch xây dựng, giám định xây dựng, kiểm tra thực hiện chính
sách, chế độ xây dựng… ở địa phương. Chính quyền địa phương có trách nhiệm tham
gia xây dựng công trình của trung ương ở địa phương về nhiều mặt, như tham gia
ý kiến với các Bộ có liên quan và với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trong việc xác định
địa điểm xây dựng trong lãnh thổ địa phương cho các cơ sở kinh tế trực thuộc
trung ương; làm thủ tục cấp đất cho xây dựng theo kế hoạch Nhà nước và hợp đồng
kinh tế, cung ứng vật liệu xây dựng tại chỗ cung cứng lao động, lương thực, thực
phẩm; vận chuyển phục vụ xây dựng; xây dựng nhà ở, công trình công cộng, công
trình kỹ thuật đô thị; quản lý về hành chính, bảo vệ trị an; động viên quần
chúng địa phương tham gia xây dựng; được Chính phủ ủy quyềnn làm một số việc về
điều hòa phân phối các lực lượng xây dựng (của trung ương và của địa phương)
trong địa phương.
- Các nganh trung ương có công
trình xây dựng ở địa phương phải tôn trong nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm quản
lý Nhà nước của chính quyền địa phương, phục tùng các quyết định mà chính quyền
địa phương ban hành theo thẩm quyền của địa phương. Các ngành trung ương phải
tích cực giúp địa phương phát triển công tác xây dựng và kinh tế chung trong địa
phương, như giúp địa phương đào tạo cán bộ công nhân; giúp làm quy hoạch; giúp
về khoa học kỹ thuật xây dựng, sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng; giúp cơ
quan xây dựng của địa phương và kinh tế địa phương ở gần nơi xây dựng công
trình trung ương mau chóng phát triển để phục vụ tốt kinh tế trung ương tại chỗ
(vùng sản xuất rau, đẩy mạnh chăn nuôi, trồng trọt, thả cá; phát triển công
nghiệp địa phương, thủ công nghiệp, phát triển chế biến nông sản, lâm sản, làm
thủy lợi, v.v…).
6. Trong từng vùng lãnh thổ vẫn
có nhiều tổ chức xây dựng của trung ương và của địa phương. Cần thực hiện kế hoạch
hóa xây dựng trong vùng lãnh tổ và có tổ chức quản lý điều hòa, phân phối, sử dụng
tốt lực lượng xây dưng trong vùng lãnh thổ theo tinh thần các nghị định số
172-CP ngày 1-11-1973 và 24-CP ngày 2-2-1976, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước có trách
nhiệm nghiên cứu trình Chính phủ ban hành quy định về việc làm tốt kế hoạch xây
dựng theo vùng lãnh thổ. Các Bộ trưởng, Tổng cục thông báo kế hoạch xây dựng tại
địa phương cho chính quyền tỉnh, thành phố biết để phối hợp. Bộ Xây dựng phối hợp
với một số ngành có liên quan nghiên cứu để tổ chức cơ quan cung ứng vật tư, vật
liệu, thiết bị xây dựng tại khu vực.
Thủ tướng Chính phủ sẽ có quyết
định cụ thể giao Chủ tịch tỉnh, thành phố ở trung tâm mỗi vùng lãnh thổ tạm thời
được ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ, trong một phạm vi sẽ được định
rõ, về kiểm tra, đôn đốc, điều hòa, phối hợp, giải quyết các mắc mứu giữa các
đơn vị xây dưng, các đơn vị chủ quản công trình, các đơn vị cung ứng vật tư, tiền
vốn, vận chuyển… để đẩy mạnh thực hiện tốt kế hoạch xây dựng vùng lãnh thổ. Việc
gì vượt quá phạm vi Chủ tịch tỉnh, thành phố được ủy quyền, thì báo cáo lên Thủ
tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Tổng cục trưởng có liên quan giải quyết.
III. THỐNG NHẤT
VÀ TĂNG CƯỜNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT, KINH DOANH. CUNG ỨNG LIỆU XÂY DỰNG, THIẾT
BỊ, VẬT TƯ KỸ THUẬT XÂY DỰNG
Bộ Xây dựng quản lý tống nhất sản
xuất và cung ứng vật liệu xây dựng cho ngành xây dựng; quản lý thống nhất tài
nguyên vật liệu xây dựng chung cho cả nước; lập quy hoạch sản xuất vật liệu xây
dựng (cả trung ương, địa phương, quốc doanh, hợp tác xã); cùng Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước làm kế hoạch dài hạn, ngắn hạn về sản xuất, phân phối, sử dụng vật liệu
xây dựng. Về kinh doanh vật liệu xây dựng, Chính phủ giao từng mặt hàng cho từng
Bộ theo chức năng của mỗi Bộ (gỗ do Bộ Lâm nghiệp; thép do Bộ Cơ khí và
luyện kim; sơn do Tổng cục Hóa chất; xi măng, gạch, ngói, đá vôi, cát, sỏi,
sành, sứ xây dựng, đồ điện, nước, tiểu ngũ kim cho xây dựng v.v… địa phương Bộ
Xây dựng kinh doanh). Các ngành có thể tham goa sản xuất vật liệu xây dựng bằng
cách tận dụng phế liệu, phế phẩm của ngành, làm gạch, ngói, đá, cát, sỏi (với
xí nghiệp loại vừa và nhỏ), ở những nơi mà ngành xây dựng chưa đáp ứng đựơc nhu
cầu, nhưng phải có sự quản lý thống nhất của Bộ Xây dựng.
Bộ Xây dựng sắp xếp hợp lý tổ chức
của Bộ và lập trong Bộ một Tổng cục quản lý thống nhất sản xuất, cung ứng vật
liệu xây dựng. Về việc phân công kinh doanh vật tư kỹ thuật xây dựng cho ngành
xây dựng, Bộ Xây dựng và Bộ Vật tư thỏa thuận thống nhất ý kiến, trình Hội đồng
Chính phủ quyết định.
Bộ Xây dựng cần xúc tiến việc
nghiên cứu và sớm trình Hội đồng Chính phủ quyết định các chính sách sản xuất
và sử dụng vật liệu xây dựng trong nước, nghiên cứu đề nghị ban hành pháp lệnh
bảo vệ tài nguyên vật liệu xây dựng, chính sách sử dụng hợp lý các loại tài
nguyên vào sản xuất các loại vật liệu xây dựng; nghiêm cấm tùy tiện đánh thuế
và thu lệ phí trái với luật lệ của Nhà nước; nghiên cứu chính sách sản xuất và
bán vật liệu xây dựng cho nhân dân, cho nhu cầu của khu vực tập thể chính
sách khuyến khích sản xuất vật liệu xây dựng để xuất khẩu; chính sách giá thu
mua, cung ứng, bán lẻ vật liệu xây dựng mức dự trữ vật liệu xây dựng hợp
lý ở xí nghiệp xây lắp, công ty ,khu vực xây dựng tập trung, v.v…
Việc sản xuất cung ứng vật liệu
xây dựng phải chuyển mạnh sang quản lý theo khu vực, để hạn chế vận chuyển
loanh quanh. Chấn chỉnh và tăng cường tổ chức cung ứng vật liệu, bảo đảm cho tổ
chức xây lắp dành được thời giờ vào công tác xây lắp. Nghiên cứu để thống nhất
quản lý cung ứng vật liệu xây dựng bao ngành xây dựng, giảm dần các tổ chức
cung ứng trung gian.Bộ Xây dựng bàn kỹ với ngành có liên quan và trình lên Hội
đồng Chính phủ quyết định.
Bộ xây dựng cùng các ngành có
liên quan nghiên cứu tổ chức quản lý thống nhất các loại thiết bị, công cụ
dùng trong xây dựng: máy và công cụ điều tra, khảo sát, thiết kế thi công, thí
nghiệm, kiểm nghiệm hoàn thiện xây dựng, máy tính, máy thông tin trong xây dựng,
v.v…. Phải quản lý quy hoạch, kế hoạch, thiết kế mẫu công cụ và thiết bị xây dựng
theo tiến bộ kỹ thuật mới; quản lý các định mức sử dụng, bảo quản, sửa chữa;
theo dõi việc sản xuất trong nước; nhập khẩu và cung ứng công cụ, thiết bị xây
dựng cho ngành xây dựng; tính toán kế hoạch đào tạo công nhân sử dụng thiết bị
xây dựng; làm báo cáo thường kỳ lên Chính phủ.
IV. TĂNG CƯỜNG
CÁC TỔ CHỨC KINH DOANH TRONG XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC LÀM CÔNG TÁC THIẾT KẾ
Các công ty, xí nghiệp xây lắp của
các Bộ và địa phương phải được sắp xếp lại theo yêu cầu khách quan về tích tụ,
chuyên môn hóa, hợp tác và liên hiệp trong xây dựng, thực hiện đúng
nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Các công ty và
xí nghiệp xây lắp; phải được bố trí theo khu vực lãnh thổ là chính, có phân
công hợp lý giữa các Bộ với nhau và với chính quyền địa phương, nhằm chấm dứt
tình trạng quá phân tán, chồng chéo, trùng lắp, lãng phí hiện nay.
Cần chuẩn bị tốt các tiền đề và
điều kiện đề thành lập các xí nghiệp liên hiệp xây dựng có quy mộ tương đối lớn
có cơ cấu sản xuất đồng bộ, có công nghệ hoàn chỉnh và hoạt động theo chế độ hạch
toán kinh tế. Bộ Xây dựng dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt 5 động của xí nghiệp
liên hiệp xây dựng, xác định rõ nhu cầu, quyền hạn, trách nhiệm của xí nghiệp
trên các mặt sản xuất, kinh doanh, cơ cấu tổ chức của xí nghiệp, trình Thường vụ
Hội đồng Chính phủ thông qua và làm thí điểm trước khi ban hành chình thức.
Bộ Xây dựng nắm lại toàn bộ tổ
chức thiết kế kiến trúc công nghiệp và dân dụng, xây dựng đề án tổ chức lại lực
lượng thiết kế xây dựng công nghiệp và dân dụng đề đáp ứng nhu cầu xây dựng
ngày càng lớn. Trước mắt, Bộ Xây dựng hướng dẫn các cơ quan làm thiết kế kiến
trúc công nghiệp và dân dụng thuộc các Bộ và địa phương lập các thiết kế định
hình, trình cấp có thẩm quyền ban hành để áp dụnm nhằm bảo đảm xây dựng đúng chính
sách, tôn trọng các định mức xây dựng, tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật và tăng
nhanh khối lượng thiết kế theo nhu cầu xây dựng.
V. TĂNG CƯỜNG
MỘT SỐ TỔ CHỨC KHÁC TRONG QUẢN LÝ CÔNG TÁC XẤY DỰNG.
1. Kiện toàn tổ chức chuẩn bị đầu
tư kế hoạch hóa xây dựng có tầm quan trọng trong quyết định đối với việc nâng
cao chất lượng kế hoạch xây dựng và tạo điều kiện thực hiện tốt kế hoạch Nhà nước
về xây dựng.
Việc chuẩn bị đầu tư phải được
ghi thành chỉ tiêu của kế hoạch Nhà nước, phải xác định chính thức chủ đầu tư, xác
định các nguyên tắc, trình tự, thủ tục, phương pháp chuẩn bị đễ các ngành, địa
phương có liên quan phát biểu ý kiến. Phải có tổ chức chuyên làm chuẩn bị đầu
tư ở Bộ, Tổng cục và ở các địa phương. Phải chú ý tăng cương cán bộ và thiết bị
cho việc chưẩn bọ đầu tư; có tổ chức là giám định đầu tư. Việc xét duyệt đầu tư
phải theo nguyên tắc lãnh đạo hai chiệu giữa ngành quản lý dọc và địa phương.
Từ năm 1977, công trình nào chưa
làm xong việc chuẩn bị đầu tư thì chưa ghi kế hoạch Nhà nước, hoặc chỉ ghi là
công trình dự bị. Trường hợp cá biệt vừa đựơc ghi kế hoạch hoạch Nhà nước, vừa
chuẩn bị đầu tư, thì phải có quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trình
Thường vị Hội đồng Chính phủ xét và ban hành những quy định đối với công tác chuẩn
bị đầu tư và kế hoạch hóa xây dựng.
Trong năm 1976, Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước, các ngành và các tỉnh, thành phố phải chú ý chấn chỉnh tổ chức làm kế
hoạch xây dựng, bảo đảm kế hoạch xây dựng năm 1977 có tiến bộ rõ rệt về các mặt
cân đối, kế hoạch giao thầu, nhận thầu xây dựng. Phải làm kế hoạch xây dựng ở từng
vùng lãnh thổ, làm kế hoạch giao thầu, nhận thầu xây dựng hàng năm theo mùa
khô, gần giống như kế hoạch sản xuất nông nghiệp phải theo thời vụ.
2. Tăng cường cơ quan quản lý
Nhà nước về xây dựng và chuyên môn hóa cán bộ làm công tác xây dựng.
Các Bộ, các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương phải quan tâm kiện toàn tổ chức quản lý xây dựng.
Các Phó thủ tướng, Phó chủ tịch Ủy
ban nhân dân các cấp, thứ trưởng, Tổng cục phó phụ trách xây dựng vá các cán bộ
chủ chốt của các Tổng cục, cục, vụ, viện, các tổng công ty, công ty, xí nghiệp
làm xây dựng cần được chuyên trách, không thay đổu luôn, và phải là đồng chí có
năng lực, sức khỏe.
Để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ
đại toàn diện công tác xây dựng ở các ngành trung ương và ở các địa phương, cần
kiện toàn, chủ yếu về chất lượng, bộ phận Văn phòng Phủ thủ tướng chuyên trách
về xây dựng. Mỗi phần việc phải có một cán bộ hoặc một nhóm cán bộ có khả năng
quán triệt đường lối của Đảng, có kỹ thuật, nghiệp vụ, có khả năng theo dõi thẩm
tra công việc của các ngành, các cấp, có trình độ chuẩn bị vế các chính sách,
chế độ trược khi hội đồng chính phủ thảo luận và thông qua.
3. Vệc tuyển dụng, đào tạo công
nhân, cán bộ xây dựng pahủ đi trứơc một bứơc. Phải phát triển nhanh về số
lượng và chất lượng đội ngũ công nhân lành nghề xây dựng. Phát triển nhanh đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật xây dựng; tổ chức thông tin nhanh những tiến bộ kỹ
thuật xây dựng trên thế giới, kiện toàn đúng mức các viện nghiên cứu khoa hoc kỹ
thuật và kinh tế xây dựng. Điều hòa cán bộ, công nhân xây dựng giữa các
ngành trung ương và địa phương theo hướng tăng cường cho địa phương, cho đơn vị
xây dựng cơ sở, khuyến khích cán bộ xây dựng xuống sát cơ sở, làm việc tại cơ sở.
Bộ Xây dựng cùng các ngành có liên quan nghiên cứu, trình Hội đồng Chính phủ
bàn và giải quyết vấn đề đời sống của những người làm công tác xây dựng.
Tăng cường tổ chức, phân công quản
lý xây dựng là một vấn đề rấr lớn, rất quan trọng và rất phức tạp, cần được
nghiên cứu và giải quyết một cách thống nhất và chu đáo. Bộ xây dựng có trách
nhiệm cùng các Bộ, các ngành có làm xây dựng và các địa phương nghiên cứu và tổ
chức tốt việc thực hiện nghị quyết này thường kỳ báo cáo kết quả lên Hội đồng
Chính phủ. Những vấn đề chính sách. Chế độ mới cần kịp thời báo cáo lên Thủ tướng
Chính phủ giải quyết.
(*)In trong Công báo
1976 – Số 4 – trang 35