BỘ
CÔNG AN-BỘ TÀI CHÍNH-BỘ THƯƠNG NGHIỆP-BỘ TƯ PHÁP
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
07-BTN/LB
|
Hà
Nội, ngày 14 tháng 01 năm 1958
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
HƯỚNG DẪN VIỆC THI HÀNH SẮC LUẬT SỐ 001-SLT, NGÀY 19-4-1957,
CẤM ĐẦU CƠ VỀ KINH TẾ
BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG NGHIỆP-BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN BỘ TRƯỞNG
BỘ TÀI CHÍNH-BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Kính gửi:
|
Ủy ban Hành chính
liên khu, thành phố, tỉnh.
Các
ông Công tố ủy viên liên khu, thành phố, tỉnh.
Giám
đốc Khu, Sở Công an, Công thương.
Ông
Chủ nhiệm Phân sở thuế vụ, khu, thành phố
Trưởng
ty Công an, Công thương
Chi
sở trưởng Thuế vụ
|
Nhằm mục đích góp phần vào việc
đảm bảo bình ổn vật giá, phát triển sản xuất, thực hiện kế hoạch Nhà nước, khôi
phục và phát triển kinh tế quốc dân, bảo hộ và khuyến khích những người kinh
doanh đúng đắn, nâng cao đời sống nhân dân, Chính phủ đã ban hành Sắc luật số
001-SLt ngày 19-04-1957, cấm chỉ mọi hành động đầu cơ về kinh tế. Sắc luật này
được Quốc hội thông qua trong khóa họp thứ 7, sau khi bổ sung điều 3 (Nghị quyết
ban bố do sắc lệnh số 104-SL/L6 ngày 14-10-1957). Thủ tướng Chính phủ ra nghị định
số 163-TTg ngày 19-04-1957 ấn định các chi tiết thi hành luật nói trên.
Liên bộ ra thông tư này để hướng
dẫn các ngành, các cấp trong việc thi hành các văn bản trên. Thông tư này thay
thế thông tư số 313-BTN/LB ngày 17-05-1957.
1. - ĐỊNH
NGHĨA:
Điều 2 Của luật định nghĩa thế
nào là đầu cơ về kinh tế. Đầu cơ về kinh tế thể hiện dưới nhiều hình thức,
nhưng trong tình hình hiện nay, Chính phủ quy định 5 trường hợp phổ biến và chủ
yếu dưới đây, coi là đầu cơ:
Trường hợp 1:
Lợi dụng cơ hội hoặc tạo cơ hội
khó khăn về sản xuất, phân phối, tiêu thụ để trục lợi bằng cách:
- Vơ vét cất giấu, tích trữ hàng
hoặc từ chối, hạn chế bán hàng hóa ra làm cho thị trường trở nên khan hiếm,
nâng giá hàng hóa gây hỗn loạn thị trường;
Một vài ví dụ về hành động đầu
cơ:
- Lợi dụng tình hình khan hiếm
hoặc chênh lệch giá cả giữa các địa phương, một tư thương tự mình hoặc cho tay
chân đi các nơi sục sạo để vơ vét hàng hóa của tư nhân (tư thương khác, của nhà
sản xuất) hay của Mậu dịch quốc doanh đem về tích trữ lại làm cho giá cao lên
hoặc nâng giá một cách không hợp lý.
- Một tư thương có hàng trong kho,
trong cửa hiệu, thấy nhiều người cần mua thì từ chối, hạn chế bán ra hoặc đặt một
giá cao làm cho thị trường khan hiếm hoặc thêm khan hiếm.
- Một nhà sản xuất hoặc chế biến
thấy thị trường khan hiếm tự ý nâng giá hàng sản xuất trong lúc những điều kiện
sản xuất chưa làm thay đổi giá thành.
- Một nhà sản xuất ở nông thôn lợi
dụng lúc sản xuất kém hoặc mất mùa, đi vơ vét thêm nông phẩm đem về tích trữ lại
hoặc mua vơ vét nguyên vật liệu đem về chế biến thành hàng hóa, tích trữ để đẩy
giá lên cao.
Trường hợp 2:
Bán quá giá Nhà nước quy định và
công bố cũng coi là hành động đầu cơ.
Giá Nhà nước đây là giá do Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Thương nghiệp hoặc Ủy ban Hành chính địa phương quy định và
công bố. Ai buôn bán những loại hàng đã quy định giá đều phải bán theo giá quy
định không kể nguồn gốc và giá vốn như thế nào.
Trường hợp 3:
Lợi dụng hoặc giả mạo giấy tờ giới
thiệu của cơ quan, đoàn thể, để mua hàng hóa của Mậu dịch hay các cơ quan Nhà
nước như phụ tùng xe đạp, đồ điện, tân dược v.v… đem về bán lại để trục lợi đều
coi là hành động đầu cơ.
Trường hợp 4:
Nhà sản xuất khai gian để xin
phân phối nguyên vật liệu hoặc làm gia công thì ăn cắp, rút bớt nguyên vật liệu
do cơ quan Nhà nước cho, hoặc đổi thứ xấu lấy thứ tốt… để bán lại ra ngoài lấy
giá cao, hoặc làm hàng riêng cho mình.
Trường hợp 5:
“Dùng thủ đoạn tuyên truyền lừa
bịp phao đồn tin nhảm, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân nhằm mục đích đầu
cơ tích trữ hàng hóa để trục lợi” thì coi là hành động đầu cơ. Một vài câu nói
vô ý thức, vô trách nhiệm nhưng không phải là nhằm mục đích trục lợi thì không
phải là hành động đầu cơ.
Ngoài ra, trong bất cứ trường hợp
nào, những người nào, dù là tư nhân, hay cán bộ, công nhân viên các cơ quan, bộ
đội lợi dụng hoàn cảnh, chức vụ, quyền hạn để thông đồng với những người nói
trên nhằm mục đích trục lợi, đều coi là tòng phạm trong việc đầu cơ về kinh tế.
Nói chung, những hành động nào
có các yếu tố: lợi dụng hoặc tạo cơ hội khó khăn gây hỗn loạn thị trường nhằm
trục lợi một cách không chính đáng làm thiệt hại cho người tiêu thụ, làm thiệt
hại đến nền kinh tế quốc dân đều coi là hành động đầu cơ.
Một vài ví dụ về hành động không
phải đầu cơ:
- Trong một điều kiện phân phối
nhất định, một tư thương có thể dự trữ một số hàng hóa cần thiết cho việc kinh
doanh của mình được thường xuyên. Mức dự trữ ấy là mức nằm trong vốn luân chuyển
kinh doanh, tùy theo mức buôn bán bình thường đối với từng loại hàng. Trong lúc
thị trường khan hiếm, khi người tiêu thụ đến hỏi mua cũng không từ chối, không
hạn chế bán, không nâng giá.
- Hoặc một nhà sản xuất có thể dự
trữ một số nguyên vật liệu theo đúng kế hoạch để sản xuất được liên tục trong một
thời gian nhất định và được cơ quan công thương thừa nhận.
- Một nông dân có phương tiện tự
chế biến nông sản của mình hay nhờ chế biến thuê mà có thành phẩm còn giữ lại
trong nhà chưa bán ra.
- Một gia đình có thể dự trữ một
số hàng hóa để tiêu dùng trong một thời gian nhất định.
2. - VẤN ĐỀ
CÔNG BỐ GIÁ VÀ NIÊM YẾT GIÁ:
Để ngăn ngừa tư thương tự do
nâng giá những hàng hóa chủ yếu cho đời sống của nhân dân, gây hỗn loạn thị trường,
Nhà nước sẽ lần lượt quy định và công bố giá một số hàng hóa và bắt buộc người
kinh doanh phải niêm yết giá và bán theo giá niêm yết các loại hàng ấy không kể
giá vốn như thế nào.
Danh sách các loại hàng trên và
giá bán sẽ được đăng vào Công báo và phổ biến bằng lối truyền tin thông thường.
3. - VẤN ĐỀ
KHÁM XÉT VÀ LẬP BIÊN BẢN:
Mỗi khi cần khám xét người, đồ vật,
nhà ở và lập biên bản về tội đầu cơ về kinh tế, những viên chức được chỉ định
trong điều 4 nghị định phải tự mình đảm nhiệm việc khám xét để tránh những sai
lầm có thể gây ảnh hưởng không tốt.
Việc ủy nhiệm khám xét và lập
biên bản phải hết sức hạn chế và chỉ ủy nhiệm từng vụ một cho các cán bộ phụ
trách dưới đây:
- Đối với cơ quan tòa án: Thẩm
phán tòa án huyện.
- Đối với cơ quan công an: Trưởng,
Phó phòng Khu, sở; Trưởng, Phó quận; Trưởng, Phó ban trong các Ty; Trưởng công
an huyện, châu, đồn.
- Đối với cơ quan thuế vụ: Trưởng,
Phó phòng, Phân sở, Chi sở; Trưởng, Phó phòng quận và huyện, và cán bộ quản lý
chuyên trách.
- Đối với cơ quan công thương:
Trưởng, Phó phòng, Khu, Sở, Ty.
Khi khám nhà tư nhân hoặc nhà
riêng của người kinh doanh, cần phải theo đúng thủ tục hiện hành, nghĩa là phải
có mặt một ủy viên hành chính xã hoặc đại biểu chính quyền khu phố, người chủ
nhà, hoặc người thay mặt và một người láng giềng, khi khám xong phải lập biên bản
do viên chức thi hành lệnh khám và các người có mặt ký tên. Trường hợp người chủ
nhà hay người thay mặt không chịu ký tên thì phải ghi rõ lý do trong biên bản.
Cần nhắc rõ ràng tất cả các thủ
tục nói trên chỉ áp dụng trong việc khám xét những vụ đầu cơ, còn khi cán bộ
thuế làm nhiệm vụ khám xét về phương diện thuế thì chỉ cần theo thủ tục riêng sẵn
có của ngành mình. Mặt khác, trong khi cán bộ thuế khám xét các nhà kinh doanh
buôn chuyến, các cửa hiệu, kho hàng các xưởng sản xuất, tóm lại tất cả các cơ sở
hoạt động công thương nghiệp thuộc quyền quản lý thường xuyên của các cơ quan
thuế vụ và trong khi cán bộ thuế làm công việc thường xuyên quản lý, kiểm soát,
chống lậu của mình, nếu thấy phát hiện vụ phạm pháp đầu cơ, thì tất nhiên cán bộ
thuế đó không cần phải đi lấy thêm giấy ủy nhiệm đặc biệt mà có thể lập biên bản
luôn không cần thiết phải có mặt một ủy viên hành chính xã hoặc đại diện khu phố
và một người láng giềng như nói trên. Trong biên bản cần ghi rõ:
- Việc phạm pháp về thuế sẽ do
cơ quan thuế vụ giải quyết theo thể lệ thuế.
- Việc phạm pháp về đầu cơ tích
trữ sẽ chuyển sang Ủy ban hành chính tỉnh hay thành phố để xét định theo luật lệ
cấm đầu cơ.
Trong trường hợp này, việc xét xử
hành động phạm pháp đầu cơ về kinh tế không ảnh hưởng gì đến việc xét xử hành động
vi phạm về thể lệ thuế.
Cần chú ý là trong tình hình hiện
tại ở nông thôn cũng như ở thành thị, việc khám xét về đầu cơ cần phải làm thận
trọng, có điều tra nghiên cứu kỹ, kiên quyết không khám xét cầu may.
Những người thi hành mệnh lệnh
khám xét phải làm đúng thủ tục khám xét, nếu vi phạm thủ tục khám xét sẽ bị xử
trí theo luật lệ hiện hành.
Biên bản lập thành 4 bản:
- 1 lưu tại cơ quan khám xét.
- 1 gửi Ủy ban hành chính địa
phương(tỉnh hay thành phố).
- 1 giao cho đương sự.
- 1 gửi tòa án (mỗi khi cần thiết).
Đối với những vụ phạm pháp quan
trọng, cần phải bắt giữ người thì trong 24 giờ phải giải ngay người phạm pháp đến
cơ quan công an hoặc Tòa án nhân dân từ cấp huyện trở lên nơi gần nhất.
Sau khi lập biên bản xong, hàng
phạm pháp đều phải giao cho Ủy ban Hành chính địa phương tạm giữ và bảo quản
(Điều 6 nghị định). Ủy ban Hành chính có thể chỉ định cơ quan Mậu dịch chịu
trách nhiệm giữ và bảo quản vì cơ quan này tương đối có đủ điều kiện.
Nếu xét thấy rằng hàng phạm pháp
thuộc những loại dễ hư hỏng như lương thực, thực phẩm, thì trong 24 giờ cơ quan
khám xét phải đề nghị với Ủy ban Hành chính hoặc Tòa án nhân dân tỉnh hay thành
phố ra lệnh giải quyết ngay bằng cách bán hoặc giao cho cơ quan Nhà nước sử dụng,
số tiền bán hàng này sẽ gửi tại Ngân hàng để chờ quyết định của Ủy ban hành
chính hay Tòa án xét xử vụ phạm pháp.
4. - VẤN ĐỀ
HÌNH PHẠT:
Điều 3 của luật quy định những
người vi phạm luật này và những người đồng phạm, tùy theo tội nhẹ hay nặng sẽ bị
cảnh cáo; thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép đăng ký kinh doanh, phạt
tiền, truy tố trước tòa án. Ngoài ra, số hàng hóa phạm pháp sẽ bị tịch thu một
phần hay toàn bộ, hoặc bị trưng mua.
a) Thẩm quyền của Ủy
ban hành chính tỉnh hay thành phố.
- Xử lý một vụ phạm pháp, Ủy ban
Hành chính tỉnh hay thành phố có thể áp dụng một trong ba hoặc cả ba hình phạt
sau đây:
- Cảnh cáo .
- Thu hồi có thời hạn hay vĩnh
viễn giấy phép đăng ký kinh doanh công thương nghiệp.
- Phạt tiền đến một triệu đồng.
Ngoài 3 hình phạt nói trên, Ủy
ban Hành chính sẽ trưng mua hoặc có thể tịch thu một phần hay toàn bộ hàng hóa
phạm pháp.
Đối với những vụ vi phạm thể lệ
niêm yết giá quy định ở điều 3 nghị định, Ủy ban hành chính có thể chỉ áp dụng
hình phạt theo thể lệ hành chính như cảnh cáo, thu hồi giấy phép đăng ký kinh
doanh công thương nghiệp, phạt tiền.
Ngoài ra, mỗi khi xét cần, UBHC
còn có thể đề nghị truy tố can phạm trước Tòa án nhân dân tỉnh hay thành phố.
Quyết định của UBHC áp dụng các
hình phạt cảnh cáo, thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh công thương nghiệp và
trưng mua nói trên là quyết định chung thẩm, người phạm pháp phải thi hành ngay
và không thể khiếu nại được.
Đối với những vụ phạm pháp mà
xét thấy rằng: có thể chỉ cần phạt tiền và tịch thu hàng hóa mà không cần thiết
phải đưa ra tòa án thì trước khi UBHC tỉnh hay thành phố ra quyết định phạt nên
giải thích cho can phạm rõ, nếu họ chịu nhận sự xử phạt của Ủy ban thì sẽ không
phải xét xử lại nữa. Sau khi đã được nghe giải thích rồi, mà can phạm không chịu
nhận sự xử phạt của Ủy ban, thì Ủy ban sẽ chuyển hồ sơ sang Tòa án nhân dân tỉnh
hay thành phố. Biện pháp này chỉ áp dụng để giải quyết các vụ phạm pháp đầu cơ
về kinh tế.
b) Thẩm quyền của Tòa
án nhân dân tỉnh hay thành phố.
Công tố viện sẽ truy tố khi có đề
nghị của UBHC tỉnh hay thành phố, tòa án thụ lý một vụ phạm pháp đầu cơ về kinh
tế có thể áp dụng những hình phạt sau đây đã ghi trong Sắc luật 001-SLt.
- Phạt tiền từ 10 vạn đến 100
triệu đồng.
- Phạt tù từ 1 tháng đến 5 năm.
- Tịch thu một phần hay toàn bộ
hoặc trưng mua số hàng phạm pháp.
Tòa án có thể áp dụng một trong
ba hình phạt hoặc cả ba hình phạt đó.
Trong mọi trường hợp dù áp dụng
hình phạt hành chính hoặc tư pháp, hàng hóa phạm pháp đều bị tịch thu hoặc
trưng mua. Nếu chỉ tịch thu một phần thì số còn lại cũng bị trưng mua.
Tòa án nhân dân tỉnh hay thành
phố xử sơ thẩm, nếu có chống án thì Tòa án nhân dân phúc thẩm liên khu hoặc
thành phố sẽ xử chung thẩm.
c) Điều 4 của quy định
rằng: “Những người tự giác khai báo sẽ được khoan hồng một cách thích đáng”.
Khoan hồng một cách thích đáng
có nghĩa là tùy theo từng trường hợp mà định xử lý như miễn cảnh cáo, miễn thu
hồi giấy đăng ký kinh doanh, miễn truy tố trước tòa án. Hoặc người phạm pháp có
thể được giảm nhẹ tội: đáng phạt tù nặng chỉ phạt tù nhẹ, đáng phạt tù nhẹ thì
phạt tiền, đáng phạt tù nhẹ và phạt tiền thì chỉ phạt tịch thu hay trưng mua
hàng phạm pháp, được hưởng án treo.
5. – VẤN ĐỀ
BÁN HÀNG HÓA PHẠM PHÁP:
Tất cả các hàng hóa phạm pháp đều
phải giao cho Công ty Mậu dịch tỉnh hay thành phố để phân phối ra thị trường,
trừ những loại dễ hư hỏng phải giải quyết ngay như đã nói ở trên.
Giá trưng mua hàng hóa phạm
pháp, hoặc giá mà Công ty Mậu dịch phải căn cứ để thanh toán đối với hàng hóa tịch
thu là:
- Đối với các hàng hóa thuộc loại
Nhà nước quản lý, giá quy định trừ các khoản kinh doanh phí của Mậu dịch quốc
doanh.
- Đối với những hàng hóa thuộc
loại Mậu dịch có thu mua giá thu mua của Mậu dịch.
- Đối với những loại sản phẩm sản
xuất và tiêu thụ chủ yếu tại mỗi địa phương giá do Ủy ban hành chính tỉnh hay
thành phố quyết định.
- Đối với những loại hàng nào
chưa có giá chỉ đạo, cần phải xin ý kiến của Bộ Thương nghiệp.
Sau khi nhận được quyết định của
Ủy ban hay bản án của Tòa án tuyên bố trưng mua hay tịch thu, các Công ty Mậu dịch
đã nhận các hàng hóa phạm pháp phải trả tiền mua hàng ngay cho cơ quan được Ủy
ban hành chính tỉnh hay thành phố ủy nhiệm thanh toán các vụ phạm pháp.
6. - VẤN ĐỀ
KHEN THƯỞNG:
Về việc khen thưởng nêu ở điều 9
nghị định, cần chú ý các điểm sau đây:
a) Người được thưởng
là những người có công giúp đỡ cơ quan có thẩm quyền khám phá ra hoặc bắt được
vụ phạm pháp.
Những viên chức thi hành lệnh
khám bắt, lập biên bản hoặc làm nhiệm vụ mình như Công an, Thuế vụ, Công
thương, Tư pháp không được hưởng khoản tiền thưởng. Tuy nhiên nếu những cán bộ,
nhân viên các ngành Công an, Thuế vụ, Công thương, Tư pháp có nhiều công theo
dõi khám phá ra các vụ phạm pháp thì cũng có thể được các thủ trưởng các ngành ấy
đề nghị khen thưởng (kể cả thưởng tiền).
b) Việc ấn , định tỷ lệ
thưởng cao hay thấp căn cứ vào công lao lớn hay nhỏ, có phân biệt khám phá gặp
nhiều hay ít khó khăn, hoặc cần phải có điều tra theo dõi mất nhiều công phu với
một việc ngẫu nhiên.
c) Số tiền thưởng cho
mỗi vụ phạm pháp chỉ hạn chế đến 25% tổng số tiền phạt về giá trị hàng hóa tịch
thu sau khi trừ thuế và các khoản chi phí. Trường hợp trong một vụ có một hay
nhiều người được hưởng chung một khoản tiền thưởng thì tính theo đầu người, mỗi
người không được quá ba triệu đồng.
d) Người có công sẽ được
lĩnh thưởng tại cơ quan công thương được Ủy ban hành chính tỉnh hay thành phố ủy
nhiệm.
Việc thanh toán tiền thưởng cần
phải làm hết sức nhanh chóng.
Mong các cấp nghiên cứu kỹ thông
tư này đặt kế hoạch thực hiện cho chu đáo. Trong khi phát hiện, nếu gặp những
khó khăn trở ngại và có kinh nghiệm gì, cần kịp thời báo cáo ngay về Bộ cơ quan
biết.
BỘ
TRƯỞNG
BỘ THƯƠNG NGHIỆP
Phan Anh
|
BỘ
TRƯỞNG
BỘ CÔNG AN
Trần Quốc Hoàn
|
BỘ
TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP
Vũ Đình Hòe
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|