Thông tư 43-NV năm 1961 hướng dẫn thi hành Quy định 76-CP về chế độ hội họp, học tập trong các tổ chức, cơ quan do Bộ Nội vụ ban hành

Số hiệu 43-NV
Ngày ban hành 21/09/1961
Ngày có hiệu lực 06/10/1961
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nội vụ
Người ký Phan Kế Toại
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ NỘI VỤ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 43-NV

Hà Nội, ngày 21 tháng 09 năm 1961 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THI HÀNH QUY ĐỊNH SỐ 76-CP NGÀY 24-5-1961 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ CHẾ ĐỘ HỘI HỌP, HỌC TẬP TRONG CÁC TỔ CHỨC, CƠ QUAN

Quy định của Hội đồng Chính phủ về chế độ hội họp, học tập là xuất phát từ yêu cầu của công tác cách mạng, từ nguyện vọng của quần chúng. Quy định có ý nghĩa chính trị quan trọng: Nó nêu cáo ý thức tận dụng thì giờ làm việc của Nhà nước để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ sản xuất và công tác; nó đưa chế độ hội họp, học tập vào nền nếp, đúng với chế độ tập trung dân chủ; nó bảo đảm thì giờ nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe và sinh hoạt gia đình của cán bộ, công nhân, viên chức, làm cho đời sống thêm tươi vui, thoải mái, tăng thêm nhân tố tích cực để tiếp tục sản xuất tốt, công tác tốt.

Cải tiến chế độ hội họp, học tập theo quy định của Hội đồng Chính phủ phải là một cuộc vận động sâu rộng trong quần chúng; nó động viên toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức tham gia xây dựng và quản lý thực sự chế độ hội họp, học tập trong các tổ chức, cơ quan, chấm dứt tình trạng hội họp, học tập quá nhiều; nó buộc các tổ chức cơ quan phải tích cực tìm cách làm việc mới, hợp lý, dùng thì giờ hội họp, học tập vừa phải mà công tác đạt nhiều kết quả hơn.

Dưới đây là một số điểm giải thích để hướng dẫn thi hành quy định số 76/CP của Hội đồng Chính phủ

I. HỘI HỌP, HỌC TẬP TRONG GIỜ LÀM VIỆC

1. Hội họp thường kỳ:

Các tổ chức, cơ quan nhất thiết phải giữ vững chế độ hội họp thường kỳ đã quy định.

Điều 1, điều 2 và điều 3 quy định 3 loại hội họp thường kỳ trong các tổ chức, cơ quan.

a) Hội họp thường kỳ ghi trong điều 1 là sau khi thủ trưởng các tổ chức, cơ quan xây dựng xong chương trình công tác, đưa ra cho toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức thảo luận thông suốt để thực hiện.

Các Vụ, Cục, Viện ở trung ương và Sở, Ty ở địa phương không nhất thiết đều họp toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức 3 tháng hoặc 6 tháng một lần; nơi nào cần họp do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh quy định.

b) Điều 2 quy định chế độ hội họp thường kỳ giữa thủ trưởng cấp trên với thủ trưởng cấp dưới trực tiếp để kiểm điểm công tác và xây dựng chương trình công tác.

Ủy ban hành chính khu, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh họp với Sở trưởng, Ty trưởng và Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, khu phố mỗi tháng một lần. Riêng khu, tỉnh miền núi có thể 3 tháng họp với huyện, châu một lần.

c) Hội nghị tổng kết công tác:

- Hội nghị tổng kết công tác của ngành ở trung ương là tổng kết toàn bộ công tác của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ (có mời đại diện của các Ty thuộc ngành và đại diện của các cơ sở do Bộ hoặc cơ quan quản lý).

- Hội nghị tổng kết công tác của ngành ở khu, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh là tổng kết toàn bộ công tác của Sở, Ty (có đại diện các phòng ở huyện thuộc ngành và đại diện của các cơ sở do Sở, Ty quản lý).

d) Thời gian quy định cho các cuộc họp thường kỳ là thời gian tối đa. Các tổ chức, cơ quan tùy tình hình cụ thể mà sử dụng cho thích hợp.

2. Các cuộc hội nghị khác:

a) Điều 4 quy định quyền triệu tập và quyền cho phép triệu tập một số hội nghị khác, nhằm quản lý chặt chẽ và giảm bớt việc triệu tập hội nghị bất thường. Dưới đây là một số điểm giải thích thêm:

- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban hành chính khu, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh có quyền triệu tập hội nghị cán bộ, công nhân, viên chức toàn cơ quan.

- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, khi cần thiết có thể mời đại diện Ủy ban hành chính của một số khu, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh có liên quan (độ mười đơn vị) tới làm việc mà không phải xin phép Thủ trưởng Chính phủ.

- Chủ tịch Ủy ban hành chính khu, thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh trước khi triệu tập Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, châu, thị xã, khu phố lên họp phải đưa ra tập thể thường trực Ủy ban quyết định

- Giấy triệu tập cán bộ cơ quan khác có liên quan đến họp phải do thủ trưởng (Bộ trưởng, Ty trưởng …) hoặc do phó thủ trưởng ký; người chỉ được ký thừa lệnh không có quyền ký giấy triệu tập hội nghị.

b) Một khi các cuộc họp thường kỳ đã giữ vững và tổ chức như trên đã nêu ra, thì hết sức hạn chế hội nghị bất thường; do đó các nơi khi triệu tập hoặc cho phép triệu tập hội nghị bất thừơng cần cân nhắc kỹ. Hội nghị bất thường chỉ nhằm giải quyết những công tác đột xuất lớn hoặc bàn những chuyên đề lớn.

c) Các cuộc hội ý, ngắn, gọn, ít người, từ nửa giờ đến một giờ giữa thủ trưởng với các phó thủ trưởng, với cán bộ có liên quan để phản ảnh tình hình, giải quyết công việc, không coi là hội nghị.

3. Sinh hoạt đoàn thể:

Trường hợp thật cần thiết và được thủ trưởng cơ quan đồng ý, ủy viên chấp hành Đảng bộ và đoàn thể khác, kể cả những ủy viên kiêm nhiều việc (không kể những cán bộ chuyên trách hoặc bán chuyên trách công tác đoàn thể) được dùng mỗi tháng nhiều nhất là 4 giờ làm việc của Nhà nước để làm việc đoàn thể.

4. Học tập trong giờ làm việc:

Điều 6 quy định thì giờ học tập chính trị, nghiệp vụ kỹ thuật của cán bộ, công nhân, viên chức trong các tổ chức, cơ quan hành chính, sự nghiệp cụ thể là:

[...]