Thông tư 16-TT/NL năm 1957 tạm thời hướng dẫn thực hiện các loại tiền thưởng áp dụng thí điểm ở nông trường do Bộ Nông Lâm ban hành.

Số hiệu 16-TT/NL
Ngày ban hành 14/08/1957
Ngày có hiệu lực 29/08/1957
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Nông lâm
Người ký Nghiêm Xuân Yêm
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ NÔNG LÂM
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 16-TT/NL

Hà Nội, ngày 14 tháng 08 năm 1957 

 

THÔNG TƯ

VỀ VIỆC TẠM THỜI HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CÁC LOẠI TIỀN THƯỞNG ÁP DỤNG THÍ ĐIỂM Ở NÔNG TRƯỜNG

Để thi hành chủ trưởng Chính phủ về vấn đề tiền thưởng sau một thời gian điều tra tình hình và nghiên cứu các hình thức khen thưởng cho công nhân làm cà phê và chăn nuôi ở Nông trường để khuyến khích công nhân cố gắng trau dồi nghề nghiệp phát huy nhiệt tình lao động, thi đua hoàn thành vượt kế hoạch Nhà nước đồng thời bồi dưỡng cho những người có thành tích cố gắng trong sản xuất.

Để áp dụng cho đơn vị thí điểm rút kinh nghiệm bổ sung thêm thể lệ chính thức sau này cho thích hợp với nông trường và quán triệt đầy đủ đường lối chính sách chung; nay Bộ tạm thời quy định các loại tiền thưởng sau đây:

1. Thưởng tăng năng suất.

2. Thưởng hoàn thành nhiệm vụ.

A. THƯỞNG TĂNG NĂNG SUẤT.

a. Thưởng tăng năng suất áp dụng cho những công nhân đã vượt mức sản xuất quy định dưới đây:

Thưởng tăng năng suất áp dụng cho những công nhân trực tiếp sản xuất hoặc rút ngắn mức tiêu chuẩn thời gian sản xuất do nông trường ấn định.

Thưởng tăng năng suất cho những việc có thể định được mức rõ ràng và cần thiết phải tăng nhiều số lượng và chất lượng hoặc rút ngắn tiêu chuẩn thời gian để kịp thời phục vụ kế hoạch cho nông trường và hạ giá thành tránh tình trạng thưởng tràn lan không có tác dụng khuyến khích đẩy mạnh sản xuất và giải quyết khó khăn của Nông trường; do đó tạm thời áp dụng thưởng tăng năng suất cho công nhân làm những việc như sau:

Thưởng cho công nhân hái cà phê, xát cá tươi, xát cà khô, và chọn cà, đào mang cà và lấp phân, làm cỏ cà, đào hố trồng cà.

b. Mức ấn định hàng tháng:

Được lĩnh lương tăng năng suất cho những người đã cố gắng vượt mức hàng tháng (ngày tăng bù ngày hụt mức) đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn nguyên vật liệu.

Những công việc do nhiều người hợp lực với nhau mới làm được thi mức sản xuất và cách tính thưởng sẽ áp dụng chung cho cả số người đó (tổ hoặc nhóm).

Ví dụ: Đào mang cá và lấp phân. Tuy có thể phân công bộ phận đào mang cá riêng, lấp phân riêng, nhưng công việc này có liên quan nhau, nếu đào mang cá qúa tăng lấp phân không kịp cũng không được, ngược lại lấp phân muốn tăng mà hố đào không kịp thì cũng không thể tăng được. Cho nên đặt mức và tính thưởng chung cho cả số người đào mang cá và lấp phân để cho cân đối với công việc làm và đúng yêu cầu kỹ thuật.

Mức hàng tháng định ra căn cứ theo giờ thực tế phải sản xuất trong tháng (trừ ngày lễ và chủ nhật) trường hợp công nhân bị ốm phải nghỉ việc hoặc mưa bão không sản xuất được thì chỉ trừ mức không sản xuất của những ngày nghỉ đã quy định trung bình cho công nhân trong Nông trường.

Ví dụ: Nông trường Sông bôi quy định 1 tháng ốm không sản xuất được trừ tối đa 3 ngày và trường hợp mưa bão phải nghỉ việc cũng chỉ trừ tối đa là 3 ngày nữa. Thì tính như sau:

Trong tháng 6 có 30 ngày (trừ 4 ngày chủ nhật, không có nghĩ lễ) còn 26 ngày sản xuất thì đặt mức cho 26 ngày, nếu vượt mức thì được tính thưởng, trường hợp bị ốm không làm việc được 3 ngày thì chỉ tính mức 23 ngày, nếu vượt mức thì được thưởng, trường hợp đã nghỉ ốm rồi mà có ngày mưa nữa (ngoài ngày ốm và ngày chủ nhật) không làm việc được thì cũng trừ thêm 3 ngày nữa (không tính mức) (tức là chỉ tính mức 20 ngày thôi trừ 3 ngày mưa 3 ngày ốm) nếu vượt mức 20 ngày thì được tính thưởng.

Nói chung ốm và mưa nghỉ việc ngày nào trừ ngày ấy nhưng không qúa số ngày đã quy định ở Nông trường theo ví dụ trên, nếu nghỉ ốm trên 3 ngày cũng chỉ được trừ mức 3 ngày nghỉ, vì mưa không sản xuất, dù trên 3 ngày cũng chỉ được trừ 3 ngày.

c. Cách đặt mức:

1. Căn cứ điều kiện hoàn cảnh đất đai hoa màu từng thời kỳ khác nhau thì quy định mức khác nhau, mức này phải là mức trung bình tiên tiến.

2. Cách tìm mức:

Trước hết phải tổ chức học tập kỷ luật lao động để năng suất của công nhân lên và đảm bảo thực tế sản xuất ngày 8 giờ. Trên cơ sở đó đi sâu vào một đơn vị xem xét năng suất từng người qua thái độ lao động hàng ngày mà nhận xét đánh giá năng suất lao động và tìm mức trung bình. Sau khi định mức trung bình tiếp tục kiểm tra lại lề lối làm việc, bố trí dụng cụ và nguyên vật liệu còn điểm gì thiếu sót phải bổ cứu cho hợp lý hơn. Trên cơ sở hợp lý ấy phân tích trừ những thì giờ phi sản xuất tìm ra kết qủa sản xuất trong giờ thực tế kết hợp ý kiến tập thể với nhận xét của lãnh đạo và kỹ thuật mà định mức trung bình cao hơn (trung bình tiên tiến) mức ấy đa số công nhân qua cố gắng thì đạt được.

Mức đặt bao nhiêu và tăng bao nhiêu thì tùy tình hình thực tế mà phân tích làm cho đa số công nhân rõ lý do để thực hiện.

Quản lý mức: Tạm thời quy định như sau:

- Sở Quốc doanh nông nghiệp lãnh đạo mức chung các Nông trường.

- Các Nông trường thành lập một hội đồng tiền thưởng gồm có:

Quản đốc, đại diện Công đoàn, cán bộ kế hoạch, kỹ thuật, Tài vụ và cán bộ tiền lương của nông trường để xét và quyết định mức cho các khu vực khi xét mức cho khu vực nào thi mời cán bộ khu vực ấy đến tham gia. Sau khi quyết định mức vừa cho thi hành báo cáo về Sở, nếu có gì sửa đổi Sở sẽ góp ý kiến cho Nông trường chỉnh lý mức kịp thời.

[...]