BỘ
NỘI THƯƠNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
15-NT
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 9 năm 1982
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ NỘI THƯƠNG SỐ 15-NT NGÀY 23 THÁNG 9 NĂM 1982 HƯỚNG DẪN
VIỆC KÝ HỢP ĐỒNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM GIỮA XÍ NGHIỆP THƯƠNG NGHIỆP VỚI XÍ NGHIỆP SẢN
XUẤT THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 146-HĐBT CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Thi hành Quyết định số 146-HĐBT
ngày 25-8-1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi và bổ sung Quyết định số
25-CP ngày 21-1-1981 của Hội đồng Chính phủ. Bộ hướng dẫn việc ký hợp đồng tiêu
thụ sản phẩm giữa xí nghiệp thương nghiệp với xí nghiệp sản xuất như sau.
I. NGUYÊN TẮC
CƠ BẢN
1. Điều 3 Quyết định số 146-HĐBT
của Hội đồng Bộ trưởng quy định: "về nguyên tắc, toàn bộ sản phẩm do xí
nghiệp làm ra đều phải bán cho các cơ quan thương nghiệp quốc doanh và các đơn
vị kinh tế của Nhà nước theo kế hoạch phân phối sản phẩm đã được cơ quan giao kế
hoạch sản xuất duyệt. Các cơ quan nói trên có trách nhiệm ký và thực hiện đầy đủ
hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho xí nghiệp theo chế độ hợp đồng kinh tế hiện hành
...". Như vậy là:
a) Các xí nghiệp sản xuất quốc
doanh phải bán toàn bộ sản phẩm hàng tiêu dùng (kể cả hàng tiêu dùng thuộc sản
phẩm phụ của xí nghiệp) cho các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh. Chỉ những sản
phẩm mà thương nghiệp quốc doanh không có chức năng kinh doanh mà do các tổ chức
kinh tế khác của Nhà nước kinh doanh, hoặc các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước
đã có kế hoạch phân phối cho các đơn vị tiêu thụ trực tiếp nhận ở xí nghiệp sản
xuất, thì xí nghiệp sản xuất mới theo kế hoạch mà bán cho các đơn vị kinh tế
khác.
b) Các xí nghiệp thương nghiệp phải
kịp thời ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với các xí nghiệp sản xuất, tạo điều kiện
cho các xí nghiệp phát triển sản xuất.
Các xí nghiệp thương nghiệp quốc
doanh ký kết hợp đồng với các xí nghiệp sản xuất quốc doanh theo sự phân công
sau đây:
Đối với những mặt hàng lưu thông
trong cả nước hoặc ở nhiều vùng mà trung ương có trách nhiệm cân đối tiêu dùng
thì các Công ty Trung ương ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hoặc công ty Trung
ương mua qua công ty thương nghiệp địa phương (đối với một số mặt hàng của công
nghiệp địa phương mà công ty trung ương không có điều kiện trực tiếp ký hợp đồng
tiêu thụ sản phẩm).
Đối với những mặt hàng sản xuất
và tiêu dùng ở địa phương hoặc tiêu thụ sang địa phương khác ngoài cân đối của
Trung ương thì các công ty thương nghiệp địa phương ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Xí nghiệp thương nghiệp nào được
phân công tiêu thụ sản phẩm chính của xí nghiệp sản xuất thì cũng có trách nhiệm
tiêu thụ sản phẩm phụ của xí nghiệp đó. Nếu sản phẩm phụ không thuộc danh mục mặt
hàng kinh doanh của mình thì giới thiệu cho xí nghiệp thương nghiệp khác đến ký
hợp đồng tiêu thụ hoặc đại lý mua cho xí nghiệp thương nghiệp khác.
c) Trường hợp các xí nghiệp
thương nghiệp quốc doanh không tiêu thụ loại sản phẩm phụ nào đó thì hợp tác xã
mua bán và hợp tác xã tiêu thụ đảm nhiệm việc tiêu thụ sản phẩm cho xí nghiệp.
Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa không được để vì khuyết điểm chủ quan của mình
mà xí nghiệp sản xuất không tiêu thụ được sản phẩm. Đối với mặt hàng tiêu dùng
nào thuộc sản phẩm phụ mà thương nghiệp xã hội chủ nghĩa không có khả năng tiêu
thụ, thì thương nghiệp xã hội chủ nghĩa báo trước để xí nghiệp tự tổ chức tiêu
thụ.
2. Mục đích cuối cùng của sản xuất
là để tiêu dùng, cho nên sản xuất phải gắn với nhu cầu tiêu dùng. Các xí nghiệp
thương nghiệp quốc doanh phải điều tra, nghiên cứu, tổng hợp nhu cầu tiêu dùng,
trên cơ sở đó đặt hàng cho xí nghiệp. Vận dụng đúng đắn chính sách giá tiêu thụ
sản phẩm, đồng thời cộng tác chặt chẽ, hết sức giúp đỡ xí nghiệp khắc phục khó
khăn về vật tư nguyên liệu và về tổ chức đời sống của người lao động để xí nghiệp
có thể phát huy mọi khả năng phát triển sản xuất theo yêu cầu của bên đặt hàng.
Các xí nghiệp công nghiệp dựa
vào đơn đặt hàng của thương nghiệp để cụ thể hoá kế hoạch sản xuất của Nhà nước
và của xí nghiệp làm cho kế hoạch gắn với thị trường, sản phẩm sản xuất ra đáp ứng
nhu cầu của thị trường về số lượng và chủng loại mặt hàng, về chất lượng sản phẩm
và thời gian đưa vào lưu thông.
Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm thể
hiện cụ thể mối quan hệ giữa công nghiệp với thương nghiệp, nó ràng buộc trách
nhiệm và bảo đảm quyền lợi của mỗi bên, nhằm mục đích chung là phát triển sản
xuất, phục vụ tốt tiêu dùng, nâng cao hiệu quả của sản xuất và kinh doanh, củng
cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Các tổ chức thương nghiệp xã hội
chủ nghĩa phải thực hiện nghiêm chỉnh việc ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ
sản phẩm với các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh.
II. NỘI DUNG
HỢP ĐỒNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
Căn cứ vào Nghị định số 54-CP
ngày 10-3-1975 của Hội đồng Chính phủ về hợp đồng kinh tế và các hiệu quả về
giao nộp sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm tại các Quyết định số 25-CP ngày
21-1-1981, số 64-CP ngày 23-2-1981 của Hội đồng Chính phủ và Quyết định số
146-HĐBT ngày 25-8-1982 của Hội đồng Bộ trưởng, nội dung hợp đồng tiêu thụ sản
phẩm giữa xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh với xí nghiệp công nghiệp gồm những
nội dung chủ yếu sau đây:
1.Khối lượng và cơ cấu mặt
hàng:
Xí nghiệp thương nghiệp và xí
nghiệp sản xuất quốc doanh đều hoạt động theo kế hoạch Nhà nước. Vì vậy, khối
lượng và cơ cấu mặt hàng trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm phải dựa vào chỉ tiêu
kế hoạch Nhà nước đã giao cho các xí nghiệp sản xuất và kinh doanh. Xí nghiệp sản
xuất có nghĩa vụ hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch sản xuất của Nhà nước về khối lượng
và cơ cấu sản phẩm. Xí nghiệp thương nghiệp có nghĩa vụ tiêu thụ nhanh số sản
phẩm được sản xuất ra theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Khối lượng sản phẩm ghi
trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm bao gồm:
- Những sản phẩm được sản xuất
ra theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao và được cung ứng đủ vật tư chủ yếu.
- Những sản phẩm thuộc kế hoạch
bổ sung của xí nghiệp do xí nghiệp tự tìm kiếm thêm nguyên liệu để sản xuất.
- Những sản phẩm thuộc kế hoạch
sản xuất phụ của xí nghiệp do xí nghiệp tận dụng phế liệu, phế phẩm của sản xuất
chính và nguyên vật liệu phụ mua thêm để sản xuất ra.
Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm dựa
trên cơ sở kế hoạch cụ thể của xí nghiệp sẽ quy định khối lượng và cơ cấu mặt
hàng.
Về khối lượng sản phẩm, hợp đồng
phải ghi rõ khối lượng hiện vật và tổng trị giá (theo giá bán buôn công nghiệp).
Về cơ cấu mặt hàng, ghi rõ khối
lượng và trị giá từng mặt hàng, chủng loại của các mặt hàng đó như cỡ, số, màu
sắc, hình dáng v.v...
Xí nghiệp thương nghiệp và xí
nghiệp sản xuất có thể ký hợp đồng cao hơn chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Nếu ký
thấp hơn chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước thì phải báo cáo rõ lý do để Bộ chủ quản
hai bên xem xét.
2. Về phẩm chất hàng hoá.
Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm phải
hết sức coi trọng vấn đề chất lượng hàng hoá. Hàng hoá nhất thiết phải đạt tiêu
chuẩn phẩm chất (tiêu chuẩn Nhà nước, tiêu chuẩn ngành hoặc tiêu chuẩn xí nghiệp).
Tất cả các nguyên tắc và thủ tục
Nhà nước quy định về quản lý phẩm chất hàng hoá đều phải được ngành sản xuất và
thương nghiệp nghiêm chỉnh chấp hành và phải được thể hiện trong hợp đồng tiêu
thụ sản phẩm.
Để bảo đảm phẩm chất hàng hoá
trong quá trình lưu thông, hợp đồng phải quy định rõ quy cách bao bì, đóng gói
và thời gian bảo hành hàng hoá.
Nếu do khó khăn về vật tư,
nguyên liệu, bao bì hoặc do hư hỏng thiết bị mà chất lượng hành hoá không bảo đảm
được như trước thì việc châm chước về chất lượng chỉ được thực hiện theo nguyên
tắc sau đây:
- Đối với các sản phẩm đã có
tiêu chuẩn cấp Nhà nước thì bên sản xuất và bên thương nghiệp phải cùng báo cáo
lên cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xét cho hạ cấp bậc theo tiêu chuẩn.
- Đối với những sản phẩm đã có
tiêu chuẩn ngành, thì báo cáo lên Bộ chủ quản xem xét cho hạ cấp bậc tiêu chuẩn
hoặc cho tạm thời điều chỉnh lại tiêu chuẩn cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Đối với những sản phẩm đã có
tiêu chuẩn xí nghiệp thì xí nghiệp sản xuất và xí nghiệp thương nghiệp cùng
nhau thoả thuận trong hợp đồng sau khi đã trao đổi với cơ quan quản lý phẩm chất
hàng hoá của Nhà nước.
Trong cả 3 trường hợp trên, xí
nghiệp thương nghiệp phải báo cáo với cơ quan quản lý vật giá của Nhà nước để
xem xét về giá cả.
Những trường hợp sau đây thương
nghiệp không nhận tiêu thụ và xí nghiệp sản xuất cũng không được bán ra thị trường:
- Các sản phẩm không bảo đảm
tiêu chuẩn tối thiểu về phẩm chất, do đó không có giá trị sử dụng.
- Những sản phẩm chưa được các
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xác định độ độc hại có ảnh hưởng như thế nào
đến sức khoẻ người tiêu dùng.
3.Về giá cả hàng hoá.
Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm phải
ghi rõ đơn giá sản phẩm và tổng giá trị bằng tiền.
Đối với những sản phẩm sản xuất
bằng vật tư chủ yếu do Nhà nước cung ứng và theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước thì
hai bên thanh toán với nhau theo giá bán buôn công nghiệp theo chế độ hiện
hành.
Đối với những sản phẩm sản xuất
bằng vật tư chủ yếu do xí nghiệp tự tìm kiếm cũng được thanh toán theo giá bán
buôn công nghiệp. Trường hợp do giá mua vật tư cao hơn (phần vật tư xí nghiệp tự
lo) mà giá thành và giá bán buôn xí nghiệp tăng lên thì theo quy định tại tiết
c, Điều 4 của Quyết định số 146-HĐBT, xí nghiệp, sản xuất được cơ quan thu quốc
doanh giảm mức nộp tương ứng với mức tăng giá mua vật tư. Việc điều chỉnh tăng
giá bán buôn công nghiệp chỉ được phép tiến hành khi có quyết định chính thức của
cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước.
Những nguyên tắc trên cũng áp dụng
đối với những sản phẩm sản xuất vượt mức kế hoạch Nhà nước.
Đối với những sản phẩm thuộc kế
hoạch sản xuất phụ của xí nghiệp thì thương nghiệp mua theo giá xí nghiệp đã
đăng ký với cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của xí nghiệp có sự thương lượng
thoả thuận giữa hai công nghiệp và thương nghiệp với tinh thần là vừa bảo đảm lợi
ích của xí nghiệp sản xuất và kinh doanh, vừa chiếu cố lợi ích của người tiêu
dùng và hai bên cùng nhau đấu tranh lãnh đạo được giá cả trên thị trường tự do.
4 . Giao nhận và thanh toán .
Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm phải
ghi rõ thời gian giao hàng (ngày, tháng, quý ). Những sản phẩm sản xuất cả năm
nhưng giao hàng từng chuyến, từng lô phải được quy định về thời gian cụ thể.
Địa điểm giao nhận hàng tại kho
nhà máy hay tại kho thương nghiệp, bên nào chịu trách nhiệm vận chuyển, bốc dỡ,
cũng phải được quy định rõ trong hợp đồng.
Thể thức thanh toán tiền mua
hàng phải theo đúng quy định của ngân hàng nhà nước, giữa hai xí nghiệp quốc
doanh không được dùng tiền mặt để thanh toán.
Xí nghiệp thương nghiệp và xí
nghiệp sản xuất đều có trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh những quy định về thời
gian, địa điểm, cách thức giao nhận và thanh toán đã ghi trong hợp đồng.
Trường hợp có sự thay đổi do những
lý do khách quan thì hai bên phải kịp thời bàn bạc giải quyết trên cơ sở bảo đảm
quyền lợi của cả hai bên một cách thoả đáng.
III. CHẤP
HÀNH CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
1. Thương nghiệp phải gửi đơn đặt
hàng cho xí nghiệp sản xuất ít nhất là 3 tháng trước khi bước vào kế hoạch sản
xuất. Trong trường hợp xí nghiệp bố trí kế hoạch sản xuất hàng quý thì gửi đơn
đặt hàng cho xí nghiệp ít nhất là 1 tháng trước khi bước vào kế hoạch quý. Nếu
xí nghiệp sản xuất thực tế có khó khăn không thể thoả mãn được đơn đặt hàng của
thương nghiệp thì hai bên cùng nhau bàn bạc giải quyết cho thoả đáng theo sự chỉ
đạo của kế hoạch Nhà nước. Đối với những sản phẩm thuộc kế hoạch sản xuất phụ,
nếu xí nghiệp không chủ động bố trí được kế hoạch sản xuất theo đơn đặt hàng cả
thương nghiệp thì việc mua bán được tiến hành theo sự thoả thuận, bằng hợp đồng
đối với từng lô hàng.
2. Hàng năm, sau khi đã có số kiểm
tra của kế hoạch Nhà nước trên cơ sở đơn đặt hàng của thương nghiệp, xí nghiệp
thương nghiệp và xí nghiệp sản xuất tiến hành ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Hợp
đồng ký càng sớm càng tốt, chậm nhất phải ký xong trong 12 tháng năm trước.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng,
nếu kế hoạch Nhà nước có sự điều chỉnh, thì hai bên kịp thời bàn bạc với nhau để
bổ sung, sửa đổi hợp đồng cho phù hợp với việc điều chỉnh kế hoạch.
Trong trường hợp xí nghiệp sản
xuất sản phẩm mới, xí nghiệp công nghiệp sẽ thông báo cho xí nghiệp thương nghiệp
đến ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Sau 30 ngày kể từ khi gửi thông báo đi, nếu
xí nghiệp thương nghiệp không đến ký hợp đồng thì xí nghiệp công nghiệp có quyền
ký hợp đồng với xí nghiệp thương nghiệp khác để tiêu thụ sản phẩm.
Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm là
văn bản pháp quy, bắt buộc các xí nghiệp ký kết phải thực hiện nghiêm chỉnh. Từng
tháng, từng quý phải kiểm tra việc thực hiện hợp đồng và cung cấp cho nhau những
thông tin cần thiết, giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn nhằm hoàn thành tốt hợp đồng
đã ký. Các xí nghiệp thương nghiệp cần có bộ phận phụ trách công tác hợp đồng
và đặt phái viên bên cạnh giám đốc các xí nghiệp là bạn hàng lớn của mình. Phái
viên phải là người nắm vững chính sách, chế độ quản lý kinh tế, có trình độ
nghiệp vụ, kỹ thuật về mặt hàng được phân công phụ trách, có tinh thần hợp tác
xã hội chủ nghĩa. Phái viên có thể thay mặt giám đốc công ty giải quyết tại chỗ
những mắc mứu trong quá trình thực hiện hợp đồng trong phạm vi quyền hạn được
giám đốc uỷ quyền cụ thể.
3. Mọi sự tranh chấp về hợp đồng
đã ký cần đưa ra hai bên bàn bạc giải quyết. Nếu không giải quyết được thì bên
bị vi phạm có quyền khiếu nại lên trọng tài kinh tế các cấp để giải quyết. Theo
kết quả xử lý của trọng tài kinh tế, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường
mọi thiệt hại cho bên bị vi phạm hợp đồng.
Các Sở, Ty thương nghiệp và các
công ty kinh doanh cần tổ chức cho các cán bộ, nhân viên quan hệ mua bán với
các xí nghiệp sản xuất quán triệt tinh thần và nội dung Quyết định số 146-HĐBT
của Hội đồng Bộ trưởng và nắm vững thông tư này để làm cho đúng.
Quá trình thực hiện có khó khăn,
vướng mắc gì thì báo cáo và kiến nghị cụ thể với Bộ.