HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
25-CP
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 1 năm 1981
|
QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ SỐ 25 - CP NGÀY 21-1-1981 VỀ MỘT SỐ
CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP NHẰM PHÁT HUY QUYỀN CHỦ ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ QUYỀN
TỰ CHỦ VỀ TÀI CHÍNH CỦA CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH
Thi hành các nghị quyết Hội nghị
lần thứ 6 và thứ 9 của Trung ương và nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về phân phối,
lưu thông, để phát huy mạnh mẽ quyền chủ động sản xuất - kinh doanh và quyền tự
chủ tài chính của xí nghiệp, Hội đồng Chính phủ quyết định một số chủ trương và
biện pháp nhằm tiếp tục cải tiến công tác kế hoạch hoá và hạch toán kinh tế ở
các xí nghiệp quốc doanh theo những nguyên tắc sau đây:
a) Trên cơ sở bảo đảm sự quản lý
tập trung thống nhất của Nhà nước, mở rộng quyền chủ động sản xuất kinh doanh của
xí nghiệp theo nguyên tắc lấy kế hoạch làm chính, đồng thời sử dung đúng đắn
các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường, tạo ra những điều kiện linh
hoạt, cơ động cần thiết cho xí nghiệp đẩy mạnh được sản xuất và kinh doanh có
lãi.
b) Tăng cường quyền tự chủ tài
chính của xí nghiệp, thúc đẩy xí nghiệp tính toán trong việc sử dụng các nguồn
vốn thiết bị, vật tư, lao động của xí nghiệp nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất,
trên cơ sở đó giải quyết đúng đắn 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể xí nghiệp và cá
nhân người lao động, trước tiên là khuyến khích người lao động tăng năng suất,
tăng sản lượng, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, đồng thời bảo đảm nguồn
thu của Nhà nước.
c) Tạo mọi điều kiện cho xí nghiệp
hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước, đồng thời khuyến khích xí nghiệp tận dụng mọi
tiềm lực để sản xuất thêm của cải cho xã hội, củng cố vững chắc kinh tế quốc
doanh và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện các nguyên tắc
trên, cần tiến hành một số công việc sau đây:
1. Xác định lại
phương hướng nhiệm vụ của các xí nghiệp sát với điều kiện cụ thể hiện nay.
Các Bộ, Tổng cục , Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, thành phố và các liên hiệp các xí nghiệp, công ty phải xác định lại
phương hướng, nhiệm vụ của các đơn vị cơ sở trực thuộc cho phù hợp với khả năng
thực tế của nền kinh tế, của ngành, của địa phương, đồng thời kiểm tra, phân loại
các xí nghiệp theo hướng sau đây:
a) Những xí nghiệp có vị trí
kinh tế quan trọng thì phải được bảo đảm những phương tiện vật chất một cách tập
trung và được giao các điều kiện để hoạt động một cách ổn định.
b) Những xí nghiệp Nhà nước
không bảo đảm cung ứng đủ các phương tiện, vật tư kỹ thuật thì phải phát huy
tính chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tìm việc làm và bảo đảm đời sống
công nhân, viên chức bằng cách tìm vật liệu thay thế; chuyển hướng sản xuất, nhận
làm gia công cho các đơn vị kinh tế khác hoặc liên doanh với những xí nghiệp, hợp
tác xã có khả năng tự cung ứng nguyên liệu v.v...
Nếu có điều kiện, một số xí nghiệp
loại này có thể nhận gia công cho nước ngoài nếu được chính phủ cho phép nhưng
phải chịu sự hướng dẫn của Bộ Ngoại thương.
c) Trường hợp xí nghiệp không có
khả năng tiếp tục hoạt động thì cho tạm ngừng sản xuất, tổ chức bảo quản tốt
thiết bị, giải quyết thoả đáng vấn đề sắp xếp công việc làm cho công nhân viên
và giữ gìn số cán bộ, công nhân kỹ thuật nòng cốt.
Một số cơ sở sản xuất địa phương
quy mô nhỏ trước đây chuyển từ hợp tác xã hay xí nghiệp tư doanh thành quốc
doanh, nay gặp nhiều khó khăn về vật tư, năng lượng, hoạt động bị lỗ kéo dài
thì cần được xem xét để giải thể hoặc chuyển thành hợp tác xã sản xuất.
Cùng với việc xác định lại
phương hướng, nhiệm vụ cho các xí nghiệp, giám đốc xí nghiệp cần sắp xếp, bố
trí lại sản xuất, bổ sung, sửa đổi, cải tiến dây chuyền sản xuất, tổ chức lại
và điều phối lao động hợp lý, bảo đảm việc làm cho công nhân trong sản xuất
chính cũng như sản xuất phù trợ và sản xuất phụ. Trường hợp phải thay đổi nhiệm
vụ sản xuất hoặc thay đổi công nghệ cơ bản đã được duyệt thì phải xin phép cấp
trên có thẩm quyền.
Việc chuyển xí nghiệp quốc doanh
thành hợp tác xã hoặc cho tạm ngừng sản xuất phải được bộ trưởng (nếu là xí
nghiệp trung ương), chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố (nếu là xí nghiệp
địa phương) quyết định sau khi bàn bạc với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước; nếu là xí
nghiệp quan trọng phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
2. Cải tiến
công tác kế hoạch hoá trên cơ sở phương hướng và nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh
mới và phù hợp với điều kiện hiện nay, xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa phải
không ngừng mở rộng phạm vi kế hoạch hoá, phát huy tính chủ động của mình nhằm
tận dụng các năng lực hiện có và tiềm năng, đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Ngoài nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao, Nhà nước khuyến khích xí nghiệp chủ động
sản xuất thêm sản phẩm chính, sản phẩm phụ, làm các
công việc có tính chất công nghiệp
(đối với xí nghiệp sản xuất) hoặc mở rộng diện kinh doanh (đối với xí nghiệp
thương nghiệp) nếu xí nghiệp còn năng lực sản xuất và có khả năng tự cung ứng
những điều kiện vật chất.
Như vậy, kế hoạch của xí nghiệp
bao gồm ba phần:
- Phần Nhà nước giao có vật tư bảo
đảm;
- Phần xí nghiệp tự làm;
- Phần sản xuất phụ.
a) Phần Nhà nước giao có vật tư
bảo đảm: Căn cứ vào số kiểm tra của kế hoạch Nhà nước, xí nghiệp phải xây dựng
kế hoạch dựa trên những định mức, tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật đã được Nhà nước
hay ngành quy định, bảo đảm các chỉ tiêu kế hoạch được xây dựng theo tinh thần
tích cực, vững chắc.
Các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước
giao cho xí nghiệp phải được cân đối với điều kiện vật chất cung ứng cho xí
nghiệp. Cân đối được đến đâu thì Nhà nước giao nhiệm vụ kế hoạch đến đó, dựa
trên những định mức, tiêu chuẩn hợp lý.
Cần công bố trước các điều kiện
vật chất mà Nhà nước cung ứng được để xí nghiệp chủ động tự tìm kiếm thêm một
cách hợp pháp, ngoài phần Nhà nước cung ứng.
b) Phần xí nghiệp tự làm:
Khi kế hoạch Nhà nước giao chưa
huy động được hết năng lực sản xuất của xí nghiệp vì Nhà nước không bảo đảm
cung ứng đủ vật tư, nguyên liệu, nếu xí nghiệp có khả năng tự lo được phần vật
tư, nguyên liệu còn thiếu để sản xuất thêm sản phẩm trong nhiệm vụ thiết kế của
xí nghiệp thì xí nghiệp được xây dựng phần kế hoạch tự làm.
c) Sản xuất phụ là bộ phận sản
xuất do xí nghiệp tự tổ chức thêm, không nằm trong nhiệm vụ sản xuất của xí
nghiệp.
Xí nghiệp tính toán, cân đối cả
ba phần trên thành một kế hoạch chung của xí nghiệp và trình lên cấp trên. Cấp
trên xét duyệt phần kế hoạch Nhà nước giao và phần kế hoạch tự làm.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch,
xí nghiệp có thể báo cáo cấp trên xin bổ sung kế hoạch tự làm. Ngoài ra, nếu
người đặt hàng yêu cầu và xí nghiệp có khả năng làm thêm các sản phẩm và dịch vụ
khác thì xí nghiệp được phép làm, chỉ cần báo cáo lên cấp trên biết mà không phải
xin cấp trên xét duyệt.
Dựa trên kế hoạch chung, giám đốc
xí nghiệp có quyền bố trí kế hoạch sản xuất - kinh doanh cụ thể của xí nghiệp để
thực hiện, trên cơ sở tôn trọng pháp luật của Nhà nước và bảo đảm thực hiện đầy
đủ những chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao.
Để bảo đảm phần kế hoạch tự làm,
xí nghiệp phải tự tạo ra nguồn vốn như bổ sung vốn lưu động từ lợi nhuận xí
nghiệp hoặc đi vay ngân hàng theo quy định hiện hành.
Ngân hàng Nhà nước phải quản lý
chặt chẽ tiền mặt, đồng thời phải sửa chế độ quản lý tiền mặt theo hướng phục vụ
đắc lực và kịp thời cho sản xuất kinh doanh, nhất là trong các mối quan hệ giữa
xí nghiệp quốc doanh với các đơn vị kinh tế,với tư nhân được phép kinh doanh
nhưng chưa có tài khoản ở ngân hàng.
Về tiêu thụ sản
phẩm: những sản phẩm của xí nghiệp quốc doanh trong phần kế hoạch Nhà nước
giao và phần kế hoạch tự làm đều phải bán cho cơ quan vật tư hay thương nghiệp
quốc doanh để phân phối theo kế hoạch của Nhà nước.
Những mặt hàng thuộc phần sản xuất
phụ thì ưu tiên bán cho thương nghiệp quốc doanh. Nếu thương nghiệp quốc doanh
không nhận tiêu thụ hoặc không thực hiện hợp đồng tiêu thụ thì xí nghiệp có quyền
bán cho hợp tác xã mua bán hoặc tự tiêu thụ.
Trong phần kế hoạch tự làm, nếu
xét cần thiết giữ lại một phần để đổi lấy vật tư (kể cả vật tư nhập khẩu) để tiếp
tục sản xuất, thì xí nghiệp phải đề nghị bộ trưởng ngành chủ quản (đối với xí
nghiệp trung ương) hoặc chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố (đối với xí
nghiệp địa phương) cho phép.
Đối với sản phẩm phụ cho phép xí
nghiệp giữ lại không quá 10% để làm hiện vật thưởng cho công nhân, viên chức
trong xí nghiệp.
Các Bộ quản lý sản xuất, Uỷ ban
nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quy định tỷ lệ cụ thể, hợp lý
và thoả đáng cho từng loại sản phẩm mà xí nghiệp được giữ lại để trao đổi hoặc
để thưởng hiện vật.
Về hệ thống chỉ tiêu:
Đối với xí nghiệp sản xuất tương
đối ổn định, vẫn thi hành hệ thống 9 chỉ tiêu theo chế độ hiện hành.
Đối với các xí nghiệp sản xuất
không ổn định do thiếu các điều kiện vật chất thì áp dụng 5 chỉ tiêu pháp lệnh
sau:
1. Giá trị sản lượng hàng hoá thực
hiện (có giá trị hàng hoá xuất khẩu).
2. Sản lượng sản phẩm chủ yếu
(có sản lượng hàng hoá xuất khẩu).
3. Tổng quỹ tiền lương.
4. Lợi nhuận và các khoản phải nộp
cho ngân sách Nhà nước.
5. Vật tư chủ yếu do Nhà nước
cung ứng.
Chỉ tiêu tổng quỹ tiền lương phải
được tính theo định mức tiền lương cho mỗi đơn vị sản phẩm, dù là xí nghiệp sản
xuất ổn định hay không ổn định.
Khi kiểm tra thực hiện kế hoạch
của xí nghiệp, chủ yếu là quyết toán việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch Nhà
nước giao, theo các quy định hiện hành. Đối với phần kế hoạch tự làm và sản xuất
phụ, việc kiểm tra chủ yếu nhằm kiểm tra việc thi hành các chính sách và chế độ,
nhất là về quản lý tài chính, tiền tệ, giá cả, vật tư, hàng hoá.
Nếu xí nghiệp hoàn thành tốt phần
kế hoạch tự làm nhưng không hoàn thành phần kế hoạch Nhà nước giao mà không có
lý do chính đáng, thì xí nghiệp sẽ bị phạt vật chất theo những tỷ lệ tương ứng
sẽ được quy định sau.
3. Hạch toán
giá thành và giá cả:
a) Hạch toán giá thành:
- Đối với các xí nghiệp sản xuất
ổn định, hoạt động theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao và được Nhà nước cung ứng
tương đối đầy đủ điều kiện vật chất, phải thực hiện hạch toán kinh tế và tính
toán giá thành sản phẩm theo đúng chế độ hiện hành dựa trên những định mức về
hao phí vật chất đã được qui định và tính theo giá chỉ đạo của Nhà nước. Phải
ra sức phấn đấu thực hiện tiết kiệm trong sản xuất và quản lý để nâng cao mức lợi
nhuận,
- Đối với các xí nghiệp vừa thực
hiện các nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước giao, vừa thực hiện phần kế hoạch tự làm bằng
nguyên liệu mà xí nghiệp tự thu mua được, cần kết toán riêng khoản chi về
nguyên vật liệu tự mua. Trên cơ sở đó mà xác định giá thành và giá bán sản phẩm.
b) Về giá cả:
- Đối với những sản phẩm sản xuất
theo kế hoạch Nhà nước giao, có vật tư bảo đảm, sẽ căn cứ vào giá thành kế hoạch
hợp lý và lợi nhuận xí nghiệp định mức để quy định giá bán buôn xí nghiệp. Các
giá bán buôn công nghiệp, chiết khấu thương nghiệp và giá bán lẻ (hoặc giá bán
buôn vật tư, nếu là tư liệu sản xuất) đều phải theo giá chỉ đạo.
- Đối với những sản phẩm sản xuất
theo kế hoạch tự làm thì giá bán buôn xí nghiệp phải dựa trên cơ sở giá thành
tính theo giá mua nguyên, vật liệu thoả thuận và lợi nhuận xí nghiệp định mức
tính trên cơ sở giá thành này. Lợi nhuận định mức (tính theo số tuyệt đối) được
tính gấp từ hai đến bốn lần lợi nhuận định mức đối với sản phẩm sản xuất theo kế
hoạch Nhà nước giao.
Hội đồng Chính phủ giao trách
nhiệm cho Bộ chủ quản, Bộ Tài chính , Uỷ ban Vật giá Nhà nước quy định mức tăng
cụ thể về định mức lợi nhuận, phù hợp với từng ngành, từng xí nghiệp.
4. Phân phối lợi
nhuận xí nghiệp:
a) Đối với phần
kế hoạch Nhà nước giao trên cơ sở kế hoạch năm đã được duyệt, từng quý xí nghiệp
phải đăng ký nộp lợi nhuận. Nếu thực hiện được mức đăng ký, xí nghiệp sẽ được tạm
trích lợi nhuận trên cơ sở quyết toán hàng quý. Nếu thực hiện vượt mức lợi nhuận
đã đăng ký, mà bảo đảm các mặt chính sách thì xí nghiệp được hưởng từ 60 đến
80% phần lợi nhuận vượt mức.
Lợi nhuận xí nghiệp được phân phối
cho ba quỹ theo chế độ hiện hành. Riêng đối với hai quỹ phúc lợi và khen thưởng
thì được sửa đổi như sau:
- Mức trích lợi nhuận để lập quỹ
khen thưởng trước khống chế bằng 1,5 tháng lương, nay nâng lên 3 tháng.
- Tỷ lệ phân phối cho hai quỹ
này như sau: quỹ khen thưởng 70% và quỹ phúc lợi 30%.
b) Đối với phần
kế hoạch tự làm của xí nghiệp:
Phần lợi nhuận xí nghiệp được
phân phối như sau: nộp vào ngân sách Nhà nước 20%; phần còn lại được sử dụng
cho ba quỹ theo tỷ lệ sau đây:
- 20% cho quỹ phát triển sản xuất;
- 60% cho quỹ khen thưởng;
- 20% cho quỹ phúc lợi tập thể.
c) Đối với sản
xuất phụ:
Phần lợi nhuận còn lại sau khi nộp
các loại thuế và thu quốc doanh theo chế độ hiện hành, được phân phối như sau:
- Nộp vào ngân sách Nhà nước
15%;
- Xí nghiệp được sử dụng 85%,
trong đó sử dụng cho quỹ phát triển sản xuất, cho quỹ khen thưởng và cho quỹ
phúc lợi tập thể theo tỷ lệ do giám đốc xí nghiệp bàn bạc thoả thuận với công
đoàn để quyết định.
d) Xí nghiệp
phải tập hợp cả ba nguồn thu nhập trên ( a + b + c) để phân phối theo những
tiêu chuẩn chung cho toàn thể công nhân, viên chức, không để tình trạng công
nhân làm sản phẩm chính hưởng thấp hơn làm sản phẩm phụ, làm phần kế hoạch Nhà
nước giao hưởng thấp hơn phần kế hoạch tự làm. Đối với các xí nghiệp làm những
mặt hàng hoặc những công việc đột xuất, thì lợi nhuận thu được cũng gộp chung để
phân phối theo những tiêu chuẩn của xí nghiệp. Tiêu chuẩn này do giám đốc quy định,
có sự tham gia của công đoàn xí nghiệp, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo sự
đóng góp công sức và hiệu quả thực sự đem lại của từng người.
đ) Trong trường
hợp cần thi hành lối khoán tập thể theo sản phẩm cuối cùng, có thể áp dụng
nguyên tắc phân phối thu nhập của xí nghiệp như sau: trên cơ sở tổng thu nhập
trừ đi các khoản tiêu hao vật chất, nộp thuế hay thu quốc doanh, trích nộp các
quỹ do chế độ quy định và trích lập các quỹ của xí nghiệp (quỹ khuyến khích
phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi...), phần còn lại được phân
phối giữa Nhà nước và thu nhập cá nhân theo một tỷ lệ nhất định do bộ trưởng Bộ
chủ quản quy định nếu là xí nghiệp trung ương hay Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
quy định nếu là xí nghiệp địa phương.
5. Trách nhiệm và quyền hạn của
giám đốc xí nghiệp:
Để thực hiện các chủ trương trên
đây, Hội đồng Chính phủ nhấn mạnh một số nhiệm vụ và quyền hạn của giám đốc xí
nghiệp như sau:
- Giám đốc xí nghiệp có quyền chủ
động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch Nhà nước,
quản lý chặt chẽ xí nghiệp, chủ động tính toán sản xuất, kinh doanh các mặt
hàng chính, phụ, chủ động tìm nguồn vật tư bổ sung, ký hợp đồng cung ứng và
tiêu thụ để đẩy mạnh sản xuất, tận dụng năng lực thiết bị, vốn, sức lao động
trong xí nghiệp, tránh thụ động chỉ trông chờ vào cấp trên, vào Nhà nước.
- Giám đốc xí nghiệp có quyền sử
dụng toàn bộ vốn được giao để sản xuất kinh doanh, tự tạo thêm các nguồn vốn từ
lợi nhuận xí nghiệp, từ tín dụng ngân hàng để mở rộng kinh doanh, phát triển xí
nghiệp.
Kết quả hoàn thành nhiệm vụ của
giám đốc xí nghiệp được đo bằng số sản phẩm hiện vật và số lợi nhuận đóng góp
cho Nhà nước, cùng với sự tăng thu nhập của toàn bộ công nhân, viên chức trong
xí nghiệp.
- Giám đốc xí nghiệp có quyền
thưởng phạt công nhân, viên chức trong xí nghiệp, được tuyển dụng lao động phù
hợp với yêu cầu của sản xuất, kinh doanh, có quyền cho thôi việc, hoặc từ chối
không nhận những người do cấp trên giao xuống mà không hợp nhu cầu của xí nghiệp,
có quyền bố trí, đề bạt nhân viên, cán bộ... như đã quy định trong điều lệ xí
nghiệp.
- Cùng với việc thực hiện chế độ
thủ trưởng, giám đốc xí nghiệp phải tạo điều kiện cho toàn thể công nhân, viên
chức phát huy quyền làm chủ tập thể trong xí nghiệp. Tổ chức công đoàn phải hướng
dẫn, động viên từng người lao động nâng cao ý thức trách nhiệm, trí sáng tạo,
tinh thần tự lực tự cường, đem hết sức mình hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp
sức vào việc hoàn thành các nhiệm vụ chung của xí nghiệp, giám đốc phải cùng với
công đoàn động viên và tổ chức mọi người tham gia quản lý xí nghiệp, bảo vệ an
ninh chính trị, bảo vệ tài sản Nhà nước, tổ chức tốt đời sống vật chất và văn
hoá, chống mọi hiện tượng tiêu cực trong xí nghiệp.
6. Để thực hiện có kết quả các
chủ trương và biện pháp trên đây nhằm từng bước ổn định và phát triển sản xuất,
cải thiện đời sống, Hội đồng Chính phủ giao trách nhiệm cho thủ trưởng các Bộ
quản lý sản xuất kinh doanh, và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải trực
tiếp chỉ đạo các xí nghiệp trực thuộc thi hành nghiêm chỉnh quyết định này. Các
cơ quan quản lý tổng hợp của Nhà nước phải ban hành trong tháng 2 năm 1981 những
thông tư cụ thể hoá các quy định trên và hướng dẫn các xí nghiệp thi hành được
đúng đắn và có hiệu quả, cụ thể là:
1. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cùng
với các Bộ có liên quan xây dựng và trình Hội đồng Chính phủ duyệt danh mục sản
phẩm Nhà nước thống nhất quản lý.
2. Tổng cục Thống kê trình Chính
phủ ban hành chế độ quyết đoán thực hiện kế hoạch Nhà nước; hướng dẫn việc ghi
chép, theo dõi, hạch toán phần kế hoạch tự làm.
3. Bộ Tài chính ra văn bản hướng
dẫn chế độ phân phối lợi nhuận cho từng phần kế hoạch của xí nghiệp.
4. Ngân hàng Nhà nước ra văn bản
quy định chế độ tín dụng đối với phần kế hoạch tự làm của xí nghiệp và cải tiến
chế độ quản lý tiền mặt.
5. Bộ Lao động ra văn bản hướng
dẫn việc thi hành chế độ tiền thưởng trong lương, và chế độ tiền thưởng từ lợi
nhuận cho các xí nghiệp.
6. Uỷ ban Vật giá Nhà nước quy định
chế độ tính toán và xét duyệt giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp.