BỘ
LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
11-LĐ/TT
|
Hà
Nội, ngày 22 tháng 10 năm 1969
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN QUYẾT ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ SỐ
119-CP NGÀY 19 THÁNG 07 NĂM 1969 VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỜI GIAN LAO ĐỘNG
CỦA CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC NHÀ NƯỚC
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Ngày 19 tháng 07 năm 1969, Hội đồng
Chính phủ đã ra Quyết định số 119-CP về một số biện pháp bảo đảm thời gian lao
động của công nhân viên chức Nhà nước. Tại quyết định trên, Hội đồng Chính phủ
đã nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của thời gian lao động, yêu cầu cấp bách phải
tiết kiệm thời gian lao động và quyết định một số biện pháp cụ thể cần thực hiện
ngay để quản lý chặt chẽ thời gian lao động nhằm không ngừng nâng cao năng suất
lao động.
Thông tư này hướng dẫn thực hiện
quyết định trên của Hội đồng Chính phủ.
I. Ý NGHĨA QUAN TRỌNG CỦA VIỆC
TIẾT KIỆM THỜI GIAN LAO ĐỘNG
Từ ngày hoà bình lập lại đến
nay, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định về thời gian lao động và nghỉ ngơi của
công nhân, viên chức tại những văn bản chủ yếu sau đây :
- Thông tư số 05-LĐ/TT ngày 09
tháng 03 năm 1955 và Thông tư số 16-LĐ/TT ngày 01 tháng 09 năm 1957 về thời
gian làm việc tại các xí nghiệp quốc doanh và công trường ;
- Nghị định số 028-TTg ngày 28
tháng 01 năm 1959 và Thông tư số 14-TT/LB ngày 21 tháng 03 năm 1959 hướng dẫn
thi hành Nghị định số 028-TTg về những ngày lễ chính thức, chế độ nghỉ phép năm
và nghỉ phép về việc riêng ;
- Quyết định số số 118-TTg ngày
17 tháng 12 năm 1963 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư số 01-LĐ/TT ngày 01
tháng 03 năm 1965 hướng dẫn thi hành Quyết định số 118-TTg quy định việc hội họp,
học tập của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước ;
- Nghị định số 195-CP ngày 31
tháng 12 năm 1964 ban hành điều lệ kỷ luật lao động, Thông tư số 13-TT/LB ngày
30 tháng 08 năm 1966 giải thích và hướng dẫn thi hành và Thông tư số 02-TT/LB
ngày 14 tháng 03 năm 1968 hướng dẫn về tăng cường kỷ luật lao động ;
- Thông tư số 05-TT/LB ngày 01
tháng 06 năm 1968 quy định những công việc có nhiều yếu tố độc hại, những công
việc quá nặng nhọc không sử dụng lao động nữ và hướng dẫn thêm chế độ bảo vệ sức
khoẻ nữ công nhân, viên chức.
Do việc phổ biến và tổ chức thực
hiện các văn bản trên đây, nhất là về mặt sử dụng thời gian lao động, còn thiếu
nghiêm chỉnh, việc kiểm tra thiếu chặt chẽ, nên việc quản lý thời gian lao động
bị buông lỏng, gây ra nhiều lãng phí. Trong nhiều ngành sản xuất và xây dựng
trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, kỷ luật lao động lỏng lẻo cộng thêm việc
tổ chức sản xuất tổ chức lao động và tổ chức đời sống của công nhân, viên chức
có nhiều thiếu sót, khó khăn, nên số ngày công thực tế, bình quân của một công
nhân, viên chức cao nhất chỉ bằng khoảng 80% mức quy định. Ngày nghỉ việc, giờ
ngừng việc còn nhiều. Tỷ lệ ngày nghỉ không lý do, nghỉ về việc riêng còn cao.
Tình trạng hội họp, học tập trong giờ làm việc quá nhiều và trái với chế độ. Hiện
tượng vi phạm kỷ luật giờ giấc như đến muộn về sớm, nghỉ giữa giờ kéo dài… còn
xảy ra ở nhiều nơi. Thời gian hoạt động có ích của máy móc bị giảm sút, hạn chế
việc phát huy khả năng của thiết bị. Trong khi số giờ lao động theo chế độ
trong ngày chưa tận dụng hết thì nhiều cơ sở lại huy động công nhân, viên chức
làm thêm giờ, làm đêm, làm thêm ca, thêm kíp, làm cho quỹ tiền lương phải chi
thêm hàng triệu đồng mà còn làm mệt mọi công nhân, viên chức, nhất là vào những
tháng cuối quý, cuối năm.
Tất cả những tình hình đó đã ảnh
hưởng lớn đến việc hoàn thành kế hoạch và hạn chế việc phát huy khả năng tiềm
tàng trong lao động, trong sản xuất để không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Tình hình đó đặt ra cho chúng ta
một vấn đề vừa quan trọng vừa cấp bách là phải làm cho mọi người lao động, trước
hết là cán bộ quản lý, quán triệt sâu sắc ý nghĩa to lớn của việc tiết kiệm thời
gian lao động, đồng thời phải thi hành nhiều biện pháp tổ chức và kỹ thuật cụ
thể để sử dụng đầy đủ nhất và hợp lý nhất sức lao động và thời gian lao động.
Không ngừng nâng cao năng suất
lao động là quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và cũng là mục tiêu phấn đấu
cụ thể hàng ngày và cơ bản nhất của mỗi người lao động. Khôi phục năng suất lao
động bằng mức trước chiến tranh - trước hết trong những ngành sản xuất chủ yếu
– đang là một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất mà nhân dân lao động ta phải giải
quyết để đẩy nhanh sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng và đẩy mạnh công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tiếp tục tiến lên.
Nâng cao năng suất lao động là
tăng thêm được số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc giảm
bớt được hao phí thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Vì vậy,
tăng năng suất lao động là biểu hiện cụ thể của sự tiết kiệm lao động xã hội và
trực tiếp gắn chặt với việc tiết kiệm thời gian lao động. Cho nên phương hướng
cơ bản của mọi biện pháp tăng năng suất lao động là phải hướng mọi cố gắng vào
việc tiết kiệm lao động, sử dụng thời gian làm việc đầy đủ nhất, hợp lý nhất, đạt
hiệu quả kinh tế cao.
Sử dụng thời gian làm việc đầy đủ,
hợp lý nhất là bảo đảm độ dài ngày lao động và số ngày công lao động trong
tháng, trong năm phấn đấu giảm đến mức thấp nhất thời gian ngừng việc và nghỉ
việc trong sản xuất, trong công tác; quý trọng từng phút, từng giây thời gian
làm việc để đạt đến kết quả lao động cao.
Sử dụng thời gian làm việc đầy đủ,
hợp lý nhất có tác dụng xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tự giác lao
động, tác phong nghiêm túc và lề lối làm việc khẩn trương, chính xác của giai cấp
công nhân. Đó là nghĩa vụ của mỗi người cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước
phải thực hiện nhằm cống hiến khả năng lao động của mình vào sự nghiệp bảo vệ đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội với hiệu suất cao.
Quản lý chặt chẽ và chấp hành
nghiêm chỉnh chế độ thời gian lao động và nghỉ ngơi của công nhân, viên chức
còn nhằm bảo đảm cho người lao động có thời gian cần thiết để nghỉ ngơi, tăng
cường sức khoẻ, giải trí, học tập, nâng cao trình độ văn hoá, chính trị, nghiệp
vụ và chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái.
Cho nên, quán triệt sâu sắc ý
nghĩa to lớn của việc tiết kiệm thời gian lao động trong toàn thể cán bộ, công
nhân, viên chức Nhà nước ở các cấp, các ngành là cơ sở nhận thức bảo đảm thực
hiện tốt các biện pháp trong việc sử dụng thời gian lao động đầy đủ nhất, hợp
lý nhất để không ngừng nâng cao năng suất lao động.
II. NỘI DUNG CỤ THỂ CỦA CÁC
BIỆN PHÁP TRONG QUYẾT ĐỊNH SỐ 119-CP
a) Thời gian làm việc.
1. Quyết định của Hội đồng Chính
phủ đã ghi rõ : mỗi người phải bảo đảm làm việc đủ 8 giờ một ngày hoặc 48 giờ
trong một tuần lễ. Đó là thời gian làm việc tiêu chuẩn.
2. Trường hợp sản xuất theo ca,
hoặc do tính chất sản xuất, công tác, điều kiện thời tiết, thời vụ khẩn trương
hoặc do trường hợp đột xuất khác phải phân bố lại số giờ làm việc trong ngày hoặc
số giờ và số ngày làm việc trong tuần, trong tháng cho thích hợp thì tính chung
phải làm việc bình quân đủ 8 giờ trong một ngày và bảo đảm đủ số ngày nghỉ theo
chế độ.
3. Những trường hợp có thể làm đến
10 giờ một ngày đã được quy định tại Thông tư số 05-LĐ/TT ngày 09 tháng 03 năm
1955 về thời gian làm việc tại các xí nghiệp, công trường.
4. Những trường hợp do điều kiện
lao động đặc biệt cần rút bớt thời gian làm việc hàng ngày xuống dưới 8 giờ hoặc
cần có thì giờ nghỉ giải lao giữa ca, sẽ có quy định riêng.
5. Tại thời điểm bắt đầu ngày
làm việc, người công nhân, viên chức đã phải có mặt và bắt đầu làm việc tại địa
điểm sản xuất hoặc công tác của mình. Ví dụ : thợ tiện có mặt tại máy tiện của
mình, thợ mỏ hầm lò tại cửa lò, lái xe tại nhà để xe, nhân viên kế toán tại phòng
làm việc…
Sau thời điểm kết thúc ngày làm
việc, công nhân, viên chức mới được rửa tay chân, thay quần áo làm việc (trừ loại
quần áo đặc biệt như của thợ lặn…) và rời khỏi địa điểm sản xuất hoặc công tác
của mình.
Các Bộ, Tổng cục, các Uỷ ban
hành chính địa phương cần hướng dẫn cụ thể cho các đơn vị cơ sở quy định vị trí
cụ thể của địa điểm sản xuất hoặc công tác khi bắt đầu và kết thúc ngày làm việc
cho từng loại công nhân, viên chức trong ngành mình, địa phương mình, đồng thời
có quy định chế độ kiểm tra thích hợp về sự có mặt của công nhân, viên chức tại
nơi làm việc.
Trường hợp trong cùng một xí
nghiệp, cơ quan, có một số công nhân, viên chức do tính chất công tác đặc biệt
mà thời gian bắt đầu và kết thúc ngày làm việc có khác với các công nhân, viên
chức khác (ví dụ : thợ đốt lò, thợ chấm dầu, cấp dưỡng, bảo mẫu, gác cổng, thường
trực cơ quan, lái xe con của thủ trưởng…) thì thủ trưởng đơn vị phải quy định
rõ trong nội quy xí nghiệp, cơ quan.
6. Thời gian làm việc hàng ngày
còn bao gồm thì giờ nghỉ ngơi cần thiết vì nhu cầu tự nhiên như uống nước, đại
tiểu tiện.
7. Căn cứ vào các chính sách, chế
độ hiện hành, được tính vào thời gian làm việc những loại thời giờ sau đây :
- Nữ công nhân, viên chức có con
mọn từ 12 tháng trở xuống được nghỉ nửa giờ trong mỗi buổi làm việc (hoặc một
giờ chia làm hai lần trong mỗi ca làm việc) để cho con bú ;
- Nữ công nhân, viên chức làm vệ
sinh kinh nguyệt trong những ngày hành kinh từ 20 đến 30 phút mỗi ngày nếu làm
thông ca ;
- Mỗi ca ăn cơm 30 phút đối với
những xí nghiệp làm 3 ca liên tục. Tuy nhiên đối với những công việc có hoàn cảnh
công việc luân phiên nhau để ăn cơm, ăn bồi dưỡng thì không nhất thiết phải bố
trí thì giờ ăn trong 8 giờ làm việc. Mặt khác, các xí nghiệp cần nghiên cứu tổ
chức lại các ca làm việc, quy định lại thời gian ca, lấy thời điểm ăn trưa và tối
làm căn cứ để xác định giờ cuối của mỗi ca nhằm đưa các bữa ăn chính ra ngoài
các ca làm việc và tổ chức cho công nhân ăn lót dạ vào giữa mỗi ca ;
- Xí nghiệp, cơ quan không có
cán bộ chuyên trách làm công tác công đoàn được tính trừ vào kế hoạch lao động
nhiều nhất mỗi tháng 56 giờ đối với những đơn vị có 80 người trở xuống, và 104
giờ đối với những đơn vị có 80 người trở lên (theo Nghị định số 188-TTg ngày 09
tháng 04 năm 1958 về thi hành luật công đoàn) ;
- Cán bộ, công nhân, viên chức
có kiêm nhiệm công tác Đảng và đoàn thể quần chúng làm công tác xã hội nhiều nhất
mỗi tháng 4 giờ (theo Quyết định số 118-TTg ngày 17 tháng 12 năm 1963 quy định
việc hội họp, học tập của cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước)
b) Không ai được rời nơi làm
việc trước giờ quy định.
Để bảo đảm sử dụng đầy đủ thời
gian lao động, nâng cao năng suất lao động bình quân, đồng thời để nêu cao ý thức
trách nhiệm liên đới giữa các công nhân, viên chức cùng một dây chuyền sản xuất
với nhau, trong thời gian làm việc, nếu người nào đã hoàn thành định mức lao động
hay công việc được giao trước giờ quy định thì vẫn phải ở lại làm việc để thực
hiện vượt định mức, hoặc giúp đỡ đồng nghiệp trong cùng dây chuyền sản xuất
chưa hoàn thành định mức, hoặc báo cáo với người trực tiếp chỉ huy để nhận thêm
nhiệm vụ mới.
Khi làm việc theo ca, công nhân,
viên chức chỉ được rời nơi làm việc sau khi đã bàn giao xong công việc cho
người nhận ca tiếp sau hoặc đã có ý kiến giải quyết cụ thể của người trực tiếp
chỉ huy mình.
c) Trong thời gian làm việc
không được làm việc riêng, nghĩa là không được làm bất cứ việc gì để phục vụ
cho lợi ích riêng của cá nhân mình và không thuộc nhiệm vụ được giao, dù là
dùng nguyên liệu, vật liệu của bản thân mang đến. Không được tiếp khách riêng,
viết thư riêng, nói chuyện riêng, gọi điện thoại riêng, chơi đùa, xem truyện,
đi lại la cà… vừa lãng phí thời gian lao động của mình, vừa làm cản trợ sự tập
trung chú ý của người khác.
d) Trong thời gian làm việc,
không được làm các công tác xã hội khác (như viết khẩu hiệu, trang trí, thu
tiền đi mua hàng, phân phối hàng, hội họp đoàn thể, mít-tinh, huy động công
nhân, viên chức phục vụ hội nghị, đi tăng gia sản xuất …) ngoài tiêu chuẩn thời
gian đã được quy định tại điều 10, 11, 12 Quyết định số 188-TTg và tại điều 18
chương II Nghị định số 118-TTg.
Mặt khác, mọi người phải chấp
hành nghiêm chỉnh những điều quy định về hội họp, học tập ngoài giờ làm việc đã
ban hành tại Quyết định số 118-TTg và tại Thông tư số 01-LĐ/TT ngày 01 tháng 03
năm 1965 hướng dẫn thi hành Quyết định số 118-TTg, để bảo đảm thì giờ nghỉ ngơi
của công nhân, viên chức.
e) Trong thời gian làm việc
không được tiến hành các hoạt động thể dục thể thao (như tập thể dục tập thể
giữa giờ, luyện tập, thi đấu, biểu diễn các môn thể dục, thể thao…) và các
hoạt động văn nghệ, văn hoá quần chúng (như tập dượt, tổng duyệt và biểu diễn
văn nghệ, bồi dưỡng diễn viên nghiệp dư, xem triển lãm, nhà bảo tàng, di tích lịch
sử… ) Các hoạt động này đều phải tiến hành ngoài giờ làm việc, trừ những trường
hợp riêng sẽ có quy định của Liên Bộ Văn hoá – Lao động và Uỷ ban Thể dục thể
thao – Lao động.
Từ nay trở đi, các hoạt động thể
dục, thể thao, văn nghệ, văn hoá quần chúng của công nhân, viên chức chủ yếu là
tiến hành ở cơ sở và trong phạm vi từng địa phương để khỏi mất nhiều thời gian
đi lại ảnh hưởng đến sản xuất và công tác. Các cuộc thi đấu, hội diễn của công
nhân, viên chức Nhà nước trong toàn tỉnh phải được chủ tịch Ủy ban hành
chính tỉnh cho phép và trong toàn ngành phải được Bộ trưởng Bộ chủ quản cho
phép mới được tổ chức.
Trường hợp các đội thể dục, thể
thao hoặc đội văn nghệ nghiệp dư của công nhân, viên chức các xí nghiệp, cơ
quan được triệu tập đi thi đấu, biểu diễn ở các cấp trên thì cấp triệu tập phải
trả lương và phụ cấp đi đường cho những công nhân, viên chức đó trong những
ngày phải nghỉ sản xuất và công tác (theo Thông tư số 115-TTg ngày 12 tháng 12
năm 1963 về cách hạch toán đối với một số khoản chi phí phát sinh trong quá
trình sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp). Đồng thời xí nghiệp, cơ quan phải
tuyển người làm thay, hoặc vận động những công nhân, viên chức khác làm thêm và
trả phụ cấp làm thêm giờ để bảo đảm hoàn thành kế hoạch sản xuất và công tác.
g) Nghiêm cấm cán bộ phụ
trách các cấp ở xí nghiệp, cơ quan, từ tổ trưởng sản xuất, công tác đến thủ trưởng
đơn vị không được cho công nhân, viên chức nghỉ việc trái với quy định của Nhà
nước.
Chế độ nghỉ phép về việc riêng
đã được quy định tại điều 04 Nghị định số 28-TTg ngày 28 tháng 01 năm 1959 và
hướng dẫn thi hành tại mục C Thông tư số 14-TT/LB ngày 21 tháng 03 năm 1959. Những
trường hợp cho công nhân, viên chức nghỉ trái với những quy định trên đây đều
không hợp pháp.
Cũng coi là không hợp pháp những
trường hợp quản đốc phân xưởng, chủ nhiệm buồng máy, gian hàng trưởng, đội trưởng
sản xuất, tổ trưởng sản xuất, tổ trưởng công tác… tự ý cho công nhân, viên chức
nghỉ theo quy định nhưng không được giám đốc xí nghiệp hoặc thủ trưởng cơ quan
xét duyệt (trừ trường hợp có quyết định phân cấp xét duyệt cho quản đốc phân xưởng,
đội trưởng sản xuất, trưởng phòng… của cơ quan quản lý cấp trên của xí nghiệp,
cơ quan).
III.
KẾ HOẠCH TIẾN HÀNH MỘT SỐ CÔNG TÁC CẤP BÁCH ĐỂ BẢO ĐẢM NHỮNG BIỆN PHÁP
ĐỀ RA TRONG QUYẾT ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ ĐƯỢC THỰC HIỆN
NGHIÊM CHỈNH
Nâng cao năng suất lao động, tiết
kiệm thời gian lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả về phía người trực tiếp
sản xuất, công tác, cả về phía cán bộ quản lý cơ sở và cơ quan quản lý cấp
trên. Hiệu quả kinh tế đạt được từ việc sử dụng đầy đủ nhất và hợp lý nhất thời
gian làm việc sẽ phản ánh tổng hợp tinh thần làm chủ tập thể; ý thức trách nhiệm
của công nhân, viên chức đối với sản xuất, công tác; đồng thời cũng phản ánh tổng
hợp trình độ và phương pháp tổ chức quản lý của từng xí nghiệp, từng ngành và
toàn bộ guồng máy kinh tế quốc dân.
Vì vậy, các ngành, các cấp cần
có kế hoạch và quyết tâm tiến hành tích cực những công tác cụ thể sau đây :
1. Tổ chức ngay một đợt kiểm
tra tình hình sử dụng thời gian lao động tại các cơ sở, sửa chữa ngay những
hiện tượng thi hành tùy tiện đã xảy ra, phân tích kỹ nguyên nhân gây nên
lãng phí thời gian làm việc, có biện pháp cụ thể để khắc phục với mức cố gắng
cao nhất có thể làm được và báo cáo kết quả đợt kiểm tra về Bộ Lao động để Bộ
Lao động tổng hợp báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ. Sau đó, theo đúng định kỳ
hàng quý, báo cáo về tình hình sử dụng thời gian lao động trong ngành và địa
phương mình với Bộ Lao động để phối hợp với Tổng cục Thống kê tổng hợp báo cáo
lên Hội đồng Chính phủ.
2. Khẩn trương chỉ đạo các cơ
sở xây dựng thật cụ thể nội quy xí nghiệp, cơ quan và yết rõ ở những nơi
công nhân, viên chức qua lại thường xuyên (theo nội quy mẫu kèm theo Thông tư số
13-TT/LB ngày 30 tháng 08 năm 1966 của Liên bộ Lao động - Nội vụ hướng dẫn thi
hành chế độ kỷ luật lao động, và tham khảo thêm 2 bản quy định rút ra từ hội
nghị ngành than), bảo đảm các điều kiện kiểm soát sự có mặt của cán bộ, công
nhân, viên chức tại nơi làm việc (quy định cổng ra vào, treo thẻ, lật thẻ, thực
hiện chặt chẽ chế độ chấm công hàng ngày) để nắm chắc số lao động có mặt, vắng
mặt từ đầu giờ làm việc và để điều chỉnh kịp thời từ nơi thừa sang nơi thiếu,
khắc phục tình trạng người chờ việc, việc chờ người.
3. Các ngành quản lý sản xuất
ở trung ương và địa phương phải có kế hoạch tích cực triển khai công tác cải tiến
tổ chức lao động đi đôi với cải tiến một bước tổ chức sản xuất, cải tiến kỹ thuật,
chấn chỉnh tổ chức đời sống vật chất, văn hoá ở cơ sở. Từ kinh nghiệm ở cơ
sở chỉ đạo thí điểm mà mở rộng ra tất cả các cơ sở, nhằm mục đích tăng cường
năng suất lao động, hoàn thành kế hoạch và đưa dần công tác quản lý - trước hết
là quản lý lao động – đi dần vào nền nếp. Đây là một công tác có ý nghĩa thiết
thực, cấp bách và có tính chất then chốt để quản lý chặt chẽ thời gian lao động.
4. Yêu cầu các cơ quan quản
lý cấp trên của cơ sở, nhất là cấp quản lý trực tiếp tăng cường đi sát cơ sở, cải
tiến tổ chức, sửa đổi lề lối làm việc của mình và có kế hoạch giúp đỡ giải quyết
tốt những vấn đề xác định nhiệm vụ, giao kế hoạch, cung cấp vật tư kỹ thuật…
cho cơ sở để khỏi gây ra chậm trễ, trở ngại đến sản xuất, công tác và kịp thời
ngăn ngừa, hạn chế lãng phí lao động và thời gian lao động vì ngừng việc, chờ
việc. Cần hướng dẫn cho các cơ sở chú trọng tính toán chặt chẽ ngày công, giờ
công để xác định các chỉ tiêu kế hoạch và lập các biện pháp tổ chức kỹ thuật cụ
thể nhằm tiết kiệm thời gian lao động, nâng cao năng suất lao động.
Yêu cầu các cơ quan thương
nghiệp, lương thực, y tế, vận tải, điện nước kịp thời có kế hoạch và biện pháp
cụ thể cải tiến hình thức tổ chức phục vụ công nhân, viên chức trong việc
mua hàng, khám bệnh, chữa bệnh, đi lại… bảo đảm thuận tiện, tránh gây phiền phức,
chờ đợi, vừa mất thì giờ, vừa mệt nhọc.
5. Đi đôi với giáo dục chính
trị tư tưởng, phải áp dụng triệt để các hình thức khen thưởng và kỷ luật
như điều lệ về kỷ luật lao động đã quy định. Hiện nay ở các xí nghiệp, cơ quan,
việc thưởng phạt chưa nghiêm, chưa kịp thời. Phải đấu tranh kiên quyết chống mọi
hiện tượng lãng phí thời gian lao động và biểu dương kịp thời những thành tích
tiết kiệm thời gian lao động, hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất, nhiệm vụ công
tác.
Từng xí nghiệp, cơ quan phải
nghiên cứu xây dựng những định mức tiên tiến, hợp lý để giao việc cho công
nhân, viên chức và tích cực áp dụng các chế độ, chính sách về tiền lương, tiền
thưởng hiện hành để khuyến khích công nhân, viên chức sử dụng triệt để và hợp
lý thời gian làm việc, hoàn thành tốt nhiệm vụ sản xuất và công tác.
Đối với những cán bộ, công nhân,
viên chức vi phạm những quy định về thời gian lao động, qua nhiều lần giáo dục
mà vẫn phạm lại thì phải kiên quyết thi hành kỷ luật một cách thích đáng. Thủ
trưởng xí nghiệp, cơ quan theo sự phân cấp quản lý của Bộ, Tổng cục hoặc Uỷ ban
hành chính tỉnh, thành, sau khi đã tham khảo ý kiến của Hội đồng kỷ luật, có
quyền quyết định thi hành kỷ luật công nhân, viên chức trong xí nghiệp, cơ quan
mình và chịu trách nhiệm về quyết định đó.
6. Thực hiện quyết định của Hội
đồng Chính phủ về một số biện pháp bảo đảm thời gian lao động của công nhân,
viên chức có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường quản lý lao động, bảo
đảm thực hiện số ngày công chế độ và giờ công có ích cao để không ngừng tăng
năng suất lao động.
Đây là một yêu cầu tổng hợp có
quan hệ đến nhiều mặt công tác, vừa phải đề cao tinh thần làm chủ tập thể của
mỗi người, vừa phải tăng cường ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý ở các
ngành, các cấp, vừa phải thực hiện sự phối hợp nhịp nhàng, cân đối giữa các bộ
phận và các khâu trong dây chuyền sản xuất, vừa khẩn trương lại vừa phải kiên
trì thực hiện cho kỳ được ; do đó phải có sự lãnh đạo và tổ chức thực hiện
thật chặt chẽ.
Vì vậy, các ngành, các cấp cần
chú trọng phối hợp chặt chẽ với công đoàn và đoàn thanh niên lao động tiến hành
giáo dục sâu rộng trong cán bộ, công nhân, viên chức, làm cho mọi người có chuyển
biến sâu sắc về nhận thức, để mọi người ra sức thi hành đầy đủ những biện pháp
đã đề ra trong quyết định nhằm bảo đảm thời gian lao động, để không ngừng nâng
cao năng suất lao động.
Cơ quan lao động địa phương và
các ngành cần phối hợp với công đoàn tổ chức những đợt kiểm tra ráo riết việc
chấp hành chế độ bảo đảm thời gian làm việc và nghỉ ngơi của công nhân, viên chức
tại các xí nghiệp, cơ quan, cửa hàng, phòng khám bệnh, nhà giữ trẻ, bếp ăn tập
thể… uốn nắn những lệch lạc trong việc thi hành, đồng thời báo cáo và đề nghị với
cơ quan chính quyền cùng cấp biện pháp giải quyết kịp thời những khó khăn của
cơ sở.
7. Những quy định trước đây
trái với thông tư này đều bãi bỏ. Trong quá trình thực hiện, có gặp những
khó khăn trở ngại gì, yêu cầu các ngành, các cấp phản ánh cho Bộ Lao động biết
để cùng nghiên cứu giải quyết.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ
LAO ĐỘNG
Nguyễn Hữu Khiếu
|