BỘ LAO ĐỘNG
******
|
VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 08-LĐ/TT
|
Hà Nội, ngày 10
tháng 06 năm 1959
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ HƯỚNG TUYỂN CHỌN CÔNG NHÂN VÀO
BỔ TÚC VÀ ĐÀO TẠO THỢ MỚI TẠI CÁC CƠ SỞ SẢN XUẤT QUỐC DOANH, CÁC CÔNG TRƯỜNG KIẾN
THIẾT CƠ BẢN VÀ ĐI HỌC NGHỀ Ở NƯỚC BẠN
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính
gửi:
|
- Các Bộ,
- Các cơ quan, đoàn thể trung ương,
- Các Ủy ban Hành chính khu, tỉnh và thành phố,
- Các Sở, Ty, Phòng Lao động.
|
Thực hiện kế hoạch Nhà nước, hiện
nay, các bộ, các ngành đã và đang có kế hoạch bổ túc và đào tạo hàng vạn công
nhân lành nghề nhằm đáp ứng nhu cầu công cuộc kiến thiết và sản xuất, thực hiện
hoàn thành kế hoạch Nhà nước 3 năm ( 1958-1960) đồng thời chuẩn bị lực lượng
công nhân thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế dài hạn sau này.
Công tác này có một ý nghĩa
chính trị và tầm quan trọng to lớn, góp phần vào việc phát triển hàng ngũ giai
cấp công nhân nên việc chọn người để đào tạo thành công nhân lành nghề không những
đảm bảo tiêu chuẩn yêu cầu về sản xuất đơn thuần, mà phải quán triệt đầy đủ mọi
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong thời gian qua, căn bản các
ngành đã chấp hành những điều quy định của Chính phủ, nhưng bên cạnh đó cũng có
nhiều thiếu sót:
Chính sách tuyển sinh chưa được
quy định cụ thể; việc xét duyệt nhiều lúc không được kỹ, chất lượng chính trị của
một số học sinh còn kém; còn hiện tượng cảm tình cá nhân, cục bộ, bản vị, tự giới
thiệu bà con họ hàng vào học nghề, tổ chức thực hiện kế hoạch tuyển sinh chưa tập
trung thống nhất vào những cơ quan có trách nhiệm chính do Nhà nước quy định
v.v…
Căn cứ nhiệm vụ thống nhất việc
quản lý điều hóa phân phối nhân công Chính phủ đã quy định, và chỉ thị số
013-TTg ngày 06-01-1958 của Thủ tướng phủ giao cho Bộ Lao động làm nhiệm vụ tổng
hợp công tác đào tạo thợ;
Căn cứ nghị quyết của Hội đồng
Chính phủ và những thông tư quy định của Thủ tướng phủ, Ủy ban Kiện toàn tổ chức
trung ương về việc kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh biên chế và điều chỉnh cán bộ;
Căn cứ chỉ thị 4549-TTg ngày
01-07-1957 của Thủ tướng phủ giải thích quyền tự tuyển mộ nhân công của các xí
nghiệp quốc doanh, thực hành chế độ hạch toán kinh tế;
Sau khi thảo luận thống nhất với
các Bộ, các ngành và các địa phương,
Bộ Lao động ra thông tư này quy
định những nguyên tắc và hướng tuyển chọn người để bổ túc và đào tạo công nhân ở
các cơ sở sản xuất, các công trường kiến thiết cơ bản v.v… nhằm xây dựng lực lượng
công nhân lành nghề, có trình độ giác ngộ chính trị và phẩm chất tốt, đảm bảo
phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, đồng thời chấp hành đầy đủ các chính sách
của Đảng và luật lệ của Nhà nước.
I. NHỮNG
NGUYÊN TẮC CHUNG CỦA VIỆC TUYỂN SINH
1. Phải quán triệt quan điểm
sản xuất và chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân, nhằm góp phần
xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế,
xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đào tạo lực lượng công nhân xây
dựng kinh tế miền Nam sau này.
Khi giới thiệu, tuyển chọn học
sinh phải đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn đã quy định, chủ yếu đảm bảo chất lượng
chính trị, có ý thức lao động, có sức khỏe, không nên chỉ nặng về giải quyết
công việc làm mà tuyển chọn không đúng tiêu chuẩn.
2. Thành phần tuyển vào phải được
toàn diện: có cả miền Bắc, miền Nam, nam, nữ, v.v…; ưu tiên tuyển chọn những
người đã hoạt động và có thành tích trong công cuộc kháng chiến và lao động kiến
thiết hòa bình hiện nay; những người ở trong biên chế hoặc chưa ở trong
biên chế nhưng đang ở trong các cơ quan Nhà nước, do Nhà nước quản lý và đài thọ
lương bổng; chú ý thích đáng những người đã làm lâu năm trên các công trường
và tùy theo việc, tùy theo địa phương mà tuyển chọn một số phụ nữ, một số người
thuộc các dân tộc miền núi.
3. Phân phối các nguồn nhân
công tuyển chọn phải được hợp lý, nhằm làm cho kế hoạch bổ túc và đào tạo
thợ của các ngành đạt kết quả tốt, nhanh, tiết kiệm công quỹ, đồng thời thuận lợi
cho việc bố trí sử dụng công nhân sau khi thành nghề.
4. Thống nhất việc tuyển sinh
vào các cơ quan đã được Chính phủ quy định: Ở Trung ương thì do Bộ Lao động phụ
trách, phối hợp với các Bộ, các ngành có liên quan mà giải quyết; ở địa phương
do Ủy ban Hành chính khu, tỉnh, thành phố có cơ quan Lao động giúp việc.
II. CÁC NGUỒN
NHÂN CÔNG ĐƯỢC TUYỂN CHỌN
1. Những người thợ nghề còn kém,
hoặc chưa được sử dụng đúng nghề trong các cơ quan Nhà nước (gồm số quân nhân
quân giới hay công binh có nghề đang ở trong quân đội hoặc đã chuyển sang các
ngành khác, số thợ trong các cơ quan hành chính, các công, nông,lâm trường, xí
nghiệp, v.v…); những công nhân trong các hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công, các
tập đoàn sản xuất miền Nam, các xí nghiệp công tư hợp doanh, các xí nghiệp tư
doanh và số thợ ở các thành phố; các tỉnh.
2. Quân nhân đã chuyển sang sản
xuất và lao động kiến thiết trên các công, nông trường, xí nghiệp.
3. Thương binh có khả năng sản
xuất ở các trại thương binh.
4. Nhân viên công tác ở các cơ
quan hành chính cần chuyển sang sản xuất khi chỉnh đốn biên chế.
5. Những người hiện nay Nhà nước
đài thọ lương bổng, tuy chưa ở trong biên chế một ngành nào:
- Cán bộ và đồng bào miền Nam
tập kết, vượt tuyến hiện đang ở các trạm chờ bố trí công tác.
- Học sinh miền Nam
ở các trường, hoặc ở với gia đình đã đến tuổi lao động, hoặc không đủ tiêu chuẩn
theo học văn hóa nữa.
- Việt kiều về nước ở các trạm
đón tiếp.
6. Thanh niên xung phong và lao
động trên các công trường, nông trường.
7. Lao động ở các nông trang tập
thể, các hợp tác xã thủ công nghiệp, các tập đoàn sản xuất miền Nam,
các xí nghiệp công tư hợp doanh và tư doanh.
8. Lao động thiếu việc làm ở các
thành phố, các thị xã, chú trọng tuyển chọn trước những gia đình sinh sống còn
nhiều khó khăn:
- Thương binh, bộ đội phục viên
( số đã về địa phương nhưng làm ăn gặp nhiều khó khăn).
- Lao động phục vụ lâu năm trên
công trường, vì hết việc đã trở về địa phương.
- Việt kiều về nước đang tự túc
làm ăn ở địa phương có nhiều khó khăn.
- Học sinh cấp II, cấp III thôi
học, đã đến tuổi lao động, nhằm tuyển chọn những học sinh là đoàn viên Thanh
niên lao động, có ý thức lao động, có hạnh kiểm và học bạ tốt, chú trọng tuyển
chọn trước số học sinh của gia đình liệt sĩ, thương binh, bộ đội, công nhân,
cán bộ và những gia đình có công với cách mạng.
- Vợ con liệt sĩ, thương binh,
anh hùng chiến sĩ thi đua, vợ con công nhân, cán bộ (kể cả vợ con cán bộ miền
Nam ra sản xuất) và những người mà bản thân công nhân cán bộ phải trực tiếp
nuôi nấng bằng tiền lương của mình.
Nói chung trong hoàn cảnh hiện nay
không nên lấy những người có cơ sở sản xuất ở nông thôn, những người đang tham
gia công tác ở địa phương, vào đào tạo thành thợ cho các xí nghiệp quốc doanh.,
trừ trường hợp tuyển những quân nhân phục viên, thương binh đã về nông thôn, học
sinh cấp II, cấp III và một số thanh niên nông thôn để đào tạo thành nhân viên
công tác các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hoặc đào tạo
thành công nhân cho các cơ sở công nghiệp địa phương. Trong trường hợp này sẽ
do Ủy ban Hành chính khu, tỉnh hoặc thành phố quyết định.
Những nguồn nhân công nói trên,
đối với những công nhân sẽ làm công tác ở vùng núi cần cố gắng tuyển chọn anh
em các dân tộc miền núi (miền Nam cũng như miền Bắc), nếu anh em tự nguyện
thoát ly sản xuất để tham gia công cuộc kiến thiết, nhưng về tiêu chuẩn phải
có chiếu cố một phần nào về trình độ văn hóa, không đòi thời gian đã phục vụ
nhiều hay ít, hoặc quy định tiêu chuẩn quá cao.
Đối với anh chị em Hoa kiều hoặc
những người ngoại kiều nào đã gia nhập quốc tịch Việt-nam, cũng được lựa chọn để
đào tạo thành công nhân.
Theo các nguồn nhân công trên
đây trong khi thực hiện kế hoạch tuyển sinh, Bộ Lao động sẽ tùy theo từng nghề,
từng địa phương mà phối hợp với các Bộ, các ngành, các Ủy ban Hành chính địa
phương thảo luận cụ thể và quy định tỷ lệ số lượng từng đối tượng cho được
thích hợp.
Đối với học sinh đi học ở
nước ngoài phải được đảm bảo chặt chẽ các tiêu chuẩn đề ra, chủ yếu là tiêu chuẩn
chính trị.
III. TỔ CHỨC
HỘI ĐỒNG TUYỂN CHỌN CÔNG NHÂN HỌC NGHỀ Ở TỈNH VÀ THÀNH PHỐ
Để thực hiện kế hoạch tuyển sinh
của các Bộ, các ngành, mỗi tỉnh và thành phố tùy sự phát triển công nghiệp của
từng địa phương và yêu cầu tuyển sinh nhiều hay ít mà thành lập Hội đồng tuyển
sinh chọn công nhân học nghề:
Thành phần Hội đồng tuyển chọn
gồm đại diện các cơ quan như sau:
- Ủy ban Hành chính tỉnh hoặc
thành phố: Chủ tịch Hội đồng
- Sở, Ty, Phòng Lao động: Thường
trực Hội đồng
- Sở, Ty Công an: Ủy viên
- Các đoàn thể: Công đoàn, Thanh
niên,Phụ nữ: Ủy viên
Ngoài những thành phần nói trên,
mỗi khi tuyển sinh cho ngành nào, Ủy ban Hành chính tỉnh hoặc thành phố có thể
chỉ định thêm đại diện của ngành đó tham gia vào Hội đồng, để phối hợp thực hiện
tốt kế hoạch tuyển sinh cho ngành ấy.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội
đồng tuyển chọn công nhân học nghề:
Căn cứ chính sách nhân công của
Nhà nước và kế hoạch phân phối tuyển sinh của Bộ Lao động, Hội đồng tỉnh hoặc
thành phố chịu trách nhiệm:
- Nghiên cứu quy định cụ thể tỷ
lệ các đối tượng được tuyển chọn trong địa phương.
- Hướng dẫn, đôn đốc và kiểm tra
các cơ sở trực thuộc thực hiện kế hoạch tuyển sinh đúng chính sách và đảm bảo
tiêu chuẩn của các ngành.
- Xét duyệt và tập trung đầy đủ
các hồ sơ, giấy tờ cần thiết (do cơ sở gửi lên) để chuyển lên các Bộ chủ quản
xét duyệt lại và làm báo cáo cho Bộ Lao động biết; hoặc quyết định những học
sinh đúng tiêu chuẩn để giới thiệu vào các cơ sở học nghề mà các Bộ đã phân phối
hoặc ủy nhiệm.
- Phát hiện việc các cơ sở tuyển
sinh không đúng tiêu chuẩn và chính sách đã quy định, đề nghị Ủy ban Hành chính
tỉnh hoặc thành phố, hoặc đề nghị Bộ Lao động giải quyết, nếu cần thì đề nghị
các Bộ, các ngành cấp trên của cơ sở có biện pháp giải quyết thích đáng.
IV. NHIỆM VỤ
VÀ LỀ LỐI PHÂN PHỐI TUYỂN SINH GIỮA BỘ LAO ĐỘNG, CÁC BỘ VÀ ỦY BAN HÀNH CHÍNH
CÁC TỈNH HOẶC THÀNH PHỐ.
Căn cứ chỉ thị số 013-TTg ngày
06-01-1958 của Thủ tướng phủ và nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp
ngày 05-02-1959 (công văn số 1262-A7 ngày 14-03-1959 của Thủ tướng phủ) có quy
định:
“ Bộ Lao động làm nhiệm
vụ tổng hợp, có trách nhiệm cùng Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và các Bộ nghiên cứu
xây dựng kế hoạch bổ túc và đào tạo công nhân, xây dựng các chính sách, hướng dẫn,
việc chiêu sinh v.v…”
Bộ Lao động đã có thông tư số
29-LĐ-NC ngày 23-01-1959 và thông tư số 20-LĐ-TCCB ngày 23-06-1958 quy định chế
độ học nghề một số tiêu chuẩn tuyển sinh và phân cấp giữa Bộ Lao động với Ủy
ban Hành chính các địa phương trong công tác đào tạo thợ. Trước tình hình phát
triển mới, nay Bộ quy định thêm những điểm sau đây:
1. Tùy theo sự phân cấp quản lý
các cơ sở sản xuất và kiến thiết của các Bộ, mỗi khi cần đào tạo thợ mới, các Bộ
phải lập kế hoạch, dự thảo tiêu chuẩn tuyển sinh, hướng nhân công định tuyển,
v.v… rồi thảo luận thống nhất với Bộ Lao động, hoặc Ủy ban Hành chính tỉnh,
thành phố. Đến khi tuyển sinh, các Bộ hướng dẫn cho các cơ sở trực thuộc thực
hiện đúng kế hoạch phân phối và những nguyên tắc, thủ tục tuyển chọn công nhân
do Bộ Lao động hoặc Ủy ban Hành chính khu, tỉnh, thành phố đã quy định.
2. Khi cần điều chỉnh nhân viên ở
các cơ quan hành chính; điều chỉnh công nhân trên các công, nông, lâm trường,
các xí nghiệp quốc doanh, các kho tàng, các tập đoàn sản xuất v.v….; hoặc tuyển
mới một số lao động ở thành phố và nông thôn, thì Bộ Lao động sẽ thảo luận với
Bộ Nội vụ, các Bộ quản lý công nhân với Tổng liên đoàn và các đoàn thể khác, với
Ủy ban Hành chính địa phương để thống nhất chính sách tuyển sinh và đặt kế hoạch
phân phối thi hành. Còn ở địa phương thì do Sở, Ty, Phòng Lao động dưới sự lãnh
đạo của Ủy ban Hành chính đưa ra Hội đồng tuyển chọn công nhân học nghề của tỉnh
hoặc thành phố thảo luận kế hoạch tiến hành.
3. Trường hợp Bộ chủ quản cần điều
chỉnh cán bộ trong biên chế của ngành mình thì do Bộ ấy giải quyết và báo cho Bộ
Lao động biết; nhưng nếu lấy công nhân theo hợp đồng, vợ con cán bộ công nhân
trong ngành mình, thì ởTrung ương cần thống nhất việc phân phối vào Bộ Lao động,
ở địa phương cần thống nhất với Ủy ban Hành chính khu, tỉnh, thành phố, tránh
tình trạng tự ý giải quyết mà không qua cơ quan Lao động để xảy ra tình trạng cục
bộ, bản vị, giải quyết theo cảm tình riêng.
4. Mỗi địa phương, mỗi đơn vị,
hoặc cơ sở nào được giao trách nhiệm lấy công nhân, vợ con cán bộ đi học nghề,
thì phải phối hợp chặt chẽ với cấp ủy Đảng, Công đoàn và đoàn Thanh niên Lao động
v.v… để lựa chọn được chu đáo. Đối với vợ con cán bộ phải cân nhắc kỹ, nên tuyển
chọn ai trước, ai sau nhằm đảm bảo tiêu chuẩn của các ngành, đồng thời có tác dụng
khuyến khích động viên công nhân, cán bộ v.v… phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, công
tác và không gây ra tình trạng suy bì thắc mắc trong cán bộ, công nhân.
5. Ủy ban Hành chính cần hướng dẫn
cho Hội động tuyển chọn công nhân tỉnh hoặc thành phố có trách nhiệm xét tuyển
những vợ ( hoặc chồng) con của công nhân, cán bộ, bộ đội v.v… sinh quán hoặc hiện
nay đăng ký làm ăn ở địa phương mình.
Đối với vợ ( hoặc chồng) và con
của cán bộ, công nhân ở tập thể trong các cơ quan Nhà nước, nếu ở tại địa
phương nào thì Ủy ban Hành chính tỉnh hoặc thành phố nơi ấy giải quyết. Cán bộ,
công nhân, bộ độ, v.v. có vợ con ở tập thể mà muốn xin học nghề thì đề nghị cơ
quan báo cho Ủy ban Hành chính tỉnh và Sở hay Ty, Phòng Lao động nơi cơ quan
mình đóng, để nghiên cứu giải quyết chung mỗi khi có yêu cầu.
V. PHẠM VI
THI HÀNH
Thông tư này áp dụng trong
việc tuyển chọn bổ túc và đào tạo thợ chuyên nghiệp tại các cơ sở sản xuất và
kiến thiết cơ bản của Nhà nước (xí nghiệp, công, nông, lâm trường) trong việc
tuyển chọn đi học nghề ở các trường sơ cấp kỹ thuật, đi học nghề ở nước ngoài
sau về phục vụ cho những xí nghiệp mới.
Do đã thống nhất với các Bộ, các
ngành, nên những quy định riêng trước đây của từng Bộ, từng ngành và từng địa
phương khác với thông tư này, nay không thi hành, mà thống nhất thi hành theo
thông tư này.
Bộ Lao động mong các Bộ, các
ngành, Ủy ban Hành chính các khu, tỉnh, thành phố, các Sở, Ty. Phòng Lao động
có kế hoạch nghiên cứu kỹ để phổ biến và hướng dẫn các cơ sở trực thuộc, chủ yếu
là các cán bộ phụ trách doanh, xí nghiệp, các công, nông, lâm trường, các bộ phận
tổ chức cán bộ của đơn vị thi hành đúng theo thông tư này.
Trong khi thực hiện gặp khó khăn
mắc mứu gì, yêu cầu các Bộ, các ngành, các Ủy ban Hành chính địa phương phản ảnh
kịp thời về Bộ Lao động để nghiên cứu bổ sung.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Nguyễn Văn Tạo
|