Thông tư 04-LĐTT năm 1958 tạm thời quy định và hướng dẫn thi hành chế độ thưởng phát minh cải tiến kỹ thuật và sáng kiến hợp lý hóa (gọi tắt là sáng kiến phát minh) do Bộ Lao động ban hành

Số hiệu 04-LĐTT
Ngày ban hành 08/03/1958
Ngày có hiệu lực 26/03/1958
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Lao động
Người ký Nguyễn Văn Tạo
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ LAO ĐỘNG
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 04-LĐTT

Hà Nội, ngày 08 tháng 03 năm 1958 

 

THÔNG TƯ

TẠM THỜI QUY ĐỊNH VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHẾ ĐỘ THƯỞNG PHÁT MINH CẢI TIẾN KỸ THUẬT VÀ SÁNG KIẾN HỢP LÝ HÓA (GỌI TẮT LÀ SÁNG KIẾN PHÁT MINH)

BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG

Kính gửi:

-Các Bộ, các cơ quan Trung ương
-Các Ủy ban Hành chính thành phố, liên khu, khu, tỉnh
-Các Khu, Sở, Ty và Phòng Lao động

 

A. - MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA

Trong phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm cán bộ, công nhân, viên chức ở khắp các ngành đã phát huy sáng kiến giải quyết được nhiều vấn dề mấu chốt trong sản xuất. Những sáng kiến đó có tác dụng tốt trong việc cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, làm hạ giá thành, cải thiện điều kiện lao động bảo đảm sản xuất được an toàn.

Những việc áp dụng sáng kiến ở các xí nghiệp còn lẻ tẻ, chưa được thống nhất, chưa có bộ máy chuyên trách hoặc bộ máy chưa được kiện toàn. Vì vậy mà có những sáng kiến chưa được khen thưởng và áp dụng kịp thời, hoặc có hiện tượng giá trị sáng kiến gần giống nhau mà thưởng lại khác nhau.

Đó là trở ngại làm hạn chế một phần trong phong trào phát minh cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.

Thông tư số 3-LĐ ngày 22/7/1957 của Bộ Lao động đã quy định chế độ thưởng sáng kiến phát minh nhằm mục đích khuyến khích công nhân, cán bộ kỹ thuật, nhân viên quản lý xí nghiệp, những người làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất phát huy khả năng sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Nhưng thông tư số 3-LĐ chỉ mới định một số nguyên tắc chung. Nhiều nơi đang gặp khó khăn mắc mứu về nội dung và phương pháp thực hiện.

Căn cứ vào những kinh nghiệm bước đầu đã đúc rút trong các cuộc thí điểm tiền thưởng, sau khi được Thủ tướng phủ đồng ý, nay tạm thời Bộ quy định cụ thể những nguyên tắc, nội dụng và phương pháp thực hiện thưởng sáng kiến phát minh làm cơ sở mở rộng chế độ khen thưởng này để đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật, phát minh khoa học rộng rãi trong quần chúng công nhân, cán bộ, nhân viên kỹ thuật, khoa học.

B. - NGUYÊN TẮC CHUNG

1. Tất cả công nhân, cán bộ, nhân viên và những người làm công tác nghiên cứu kỹ thuật khoa học có liên quan đến sản xuất có sáng kiến hợp lý hóa, cải tiến kỹ thuật, phát minh, trực tiếp phục vụ cho sản xuất, áp dụng trong những ngành thuộc khu vực sản xuất, sau khi áp dụng có kết quả đều được thưởng về sáng kiến phát minh theo thông tư này. Khu vực sản xuất thuộc phạm vi thi hành thông tư này gồm có: các xí nghiệp công nghiệp, vận tải bưu điện, xây dựng cán bộ, nông trường và lâm trường quốc doanh, xí nghiệp, công dụng, kim dụng ngân hàng, Mậu dịch và những xí nghiệp khác.

2.Tiền thưởng sáng kiến phát minh nhiều hay ít là do giá trị tiết kiệm được cho mỗi quốc gia lớn hay nhỏ quyết định. Mức khen thưởng cao hay thấp là tùy theo mức độ sáng tạo của mỗi loại sáng kiến để xác định, cho nên mức khen thưởng phát minh cao hơn thưởng cải tiến kỹ thuật và mức khen thưởng cải tiến kỹ thuật cao hơn sáng kiến hợp lý hóa.

3. Nguồn tiền thưởng về sáng kiến phát minh là nguồn tiền tiết kiệm được khi áp dụng sáng kiến.Tiền thưởng và các khoản phí tổn về thí nghiệm đều lấy ở các khoản chi tiêu về sáng kiến phát minh của các ngành, các xí nghiệp theo dự trù của kế hoạch như đã quy định trong thông tư số 131-TTg ngày 4/4/1957 của Thủ tướng phủ.

4. Nội dung của phát minh, cải tiến kỹ thuật và sáng kiến hợp lý hóa:

a) Phát minh:

Là những sáng tạo ra máy móc, dụng cụ mới, các loại kim khí các chất hóa học mới từ trước tới nay chưa có, có lợi nhiều cho việc đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm sức người sức của.

b) Cải tiến kỹ thuật:

Là những sửa đổi có tác dụng quan trọng đối với các cơ cấu của thiết bị máy móc hoặc đối với quy trình kỹ thuật sản xuất nhưng vẫn còn trên cơ sở kỹ thuật cơ bản hiện có.

c) Sáng kiến hợp lý hóa:

 Là những sáng kiến có tính chất kỹ thuật nhằm sửa đổi lề lối sản xuất được hợp lý hơn như những đề nghị về sử dụng thiết bị máy móc công cụ được hiệu quả hơn, hoặc kéo dài thời gian sử dụng, tiết kiệm nguyên nhiên liệu và sức điện, lợi dụng được phế phẩm cải tiến được phương pháp làm việc, cải tiến được tổ chức lao động, giảm bớt tỷ lệ phế phẩm… Phạm vi của những sáng kiến hợp lý hóa là những phương pháp cải tiến cụ thể có kết qủa tốt và rõ ràng trong việc nâng cao số lượng, chất lượng, giảm giá thành. Trong việc cải tiến ấy, nhiều khi đòi hỏi sửa đổi một vài bộ phận giản đơn của máy móc, dụng cụ.

Phải căn cứ vào trình độ cải tiến quy trình kỹ thuật, cơ cấu của máy móc thiết bị sau khi sử dụng sáng kiến mới, kết quả của sự sáng tạo của người nêu ra sáng kiến mà phân biệt sự khác nhau giữa cải tiến kỹ thuật và sáng kiến hợp lý hóa. Nói chung sáng kiến hợp lý hóa sản xuất là những đề nghị có tính chất kỹ thuật song không phải là cải tiến kết cấu của trang bị máy móc hoặc cải tiến quy trình kỹ thuật sản xuất, như cải tiến kỹ thuật.

Ví dụ:

a) Một công nhân đã sửa chữa máy nướng đinh cũ (Pháp để lại) làm ra máy hàn điện cố định có năng lực 32KW có thể hàn que hàn từ 3 đến 4 ly. Việc cải tiến đó đã làm thay đổi đối tượng lao động, thay đổi hình dáng, khả năng của máy (từ chỗ nướng đinh trở thành que hàn) nên gọi là cải tiến kỹ thuật.

b) Trong việc tiện “sơ-mi-xy-lanh” (chemisecylidre) trước dùng “bu-li” (puulie) nhỏ nay có người sáng kiến thay “bu-li” (poulie) nhỏ, nay có người có sáng kiến thay "bu-li" lớn hơn đường đi của dao chạy nhanh hơn, bắt dao vừa tiện vừa bớt một mặt một lúc, nên tiện được nhanh hơn trước có tác dụng đẩy mạnh năng suất. Sáng kiến này tuy có tính chất kỹ thuật nhưng không có thay đổi về quy trình kỹ thuật sản xuất, kết cấu của máy móc nên gọi là sáng kiến hợp lý hóa.

C. - TỶ LỆ VÀ THỜI HẠN THƯỞNG

1. Tiền thưởng phát minh tính theo giá trị tiết kiệm được trong một năm. Tiền thưởng cải tiến kỹ thuật và sáng kiến hợp lý hóa tính theo giá trị tiết kiệm trong 6 tháng, kể từ ngày áp dụng sáng kiến theo tỷ lệ sau đây:

[...]