Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Thông tư 03-LĐTT năm 1959 hướng dẫn sử dụng quỹ tiền thưởng xí nghiệp ở các xí nghiệp quốc doanh do Bộ Lao Động ban hành

Số hiệu 03-LĐTT
Ngày ban hành 20/01/1959
Ngày có hiệu lực 04/02/1959
Loại văn bản Thông tư
Cơ quan ban hành Bộ Lao động
Người ký Nguyễn Văn Tạo
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

BỘ LAO ĐỘNG
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 03-LĐTT

Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 1959 

 

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG QUỸ TIỀN THƯỞNG XÍ NGHIỆP Ở CÁC XÍ NGHIỆP QUỐC DOANH

BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG

Kính gửi:

- Các Bộ,
- Các cơ quan trung ương
- Các Ủy ban Hành chính khu, thành phố tỉnh
- Các Sở, Khu và Ty Lao động

 

Thể lệ tạm thời số 133-TTg ngày 04-4-1957 của Thủ tướng phủ quy định cho trích lập và sử dụng quỹ tiền thưởng xí nghiệp tại các xí nghiệp quốc doanh nhằm khuyến khích các xí nghiệp tiến tới hạch toán kinh tế. Chỉ thị số 5.127-TN ngày 6-4-1958 của Thủ tướng phủ về việc sử dụng quỹ tiền thưởng năm 1957 đã giải thích rõ thêm về mục đích ý nghĩa, trách nhiệm và quyền hạn sử dụng quỹ tiền thưởng xí nghiệp.

Để thống nhất nguyên tắc và hướng dẫn sử dụng quỹ tiền thưởng xí nghiệp, sau khi trao đổi ý kiến với các Bộ, các ngành quản lý sản xuất và Tổng liên đoàn Lao động Việt nam, Bộ Lao động ban hành thông tư này hướng dẫn cách sử dụng quỹ tiền thưởng.

I. NGUYÊN TẮC CHUNG VỀ VIỆC SỬ DỤNG QUỸ TIỀN THƯỞNG XÍ NGHIỆP

Để việc sử dụng quỹ tiền thưởng xí nghiệp được hợp lý và kết quả tốt. Bộ giải thích thêm một số điểm nguyên tắc dưới đây:

1. Các khoản Nhà nước cho sử dụng trong quỹ tiền thưởng xí nghiệp nằm ngoài kinh phí hàng năm mà Nhà nước cấp cho các xí nghiệp về quỹ Xã hội (phúc lợi tập thể, bảo hiểm lao động) và quỹ tiền thưởng cá nhân (thuộc quỹ tiền lương). Cho nên không vì có quỹ tiền thưởng mà rút bớt chỉ tiêu về các khoản nói trên Nhà nước đã quy định trong kế hoạch của xí nghiệp. Trái lại quỹ tiền thưởng xí nghiệp có thể bổ sung thêm các khoản kinh phí Nhà nước đã cấp cho xí nghiệp theo kế hoạch hàng năm để mở rộng thêm phạm vi và quy mô xây dựng các xí nghiệp phúc lợi tập thể, thiết bị sản xuất và thiết bị an toàn lao động.

2. Phạm vi sử dụng quỹ tiền thưởng phải đúng theo thể lệ Nhà nước đã quy định, không được vượt quá tỷ lệ đã quy định cho mỗi khoản kinh phí, không dùng tiền của khoản kinh phí, không dùng tiền của khoản này chi cho khoản khác (50% tiền thưởng dùng xây dựng sự nghiệp văn hóa và phúc lợi cho công nhân, 15 % tiền thưởng để làm phần thưởng cho cá nhân, 20% tiền thưởng dùng vào việc cải tiến hoặc bổ sung thiết bị sản xuất và an toàn lao động, 15% tiền thưởng dùng để cứu tế tạm thời.

3. Các khoản chi tiêu phải có dự trù, có kế hoạch sử dụng trước nhằm bảo đảm sử dụng quỹ tiền thưởng thích hợp với yêu cầu cần thiết cải thiện điều kiện lao động và cải thiện đời sống công nhân, viên chức và cũng để đảm bảo việc chi tiêu không quá tổng số quỹ tiền thưởng đã được Nhà nước xét duyệt.

4. Quyền sử dụng quỹ tiền thưởng là thuộc về toàn thể cán bộ, công nhân viên xí nghiệp. Giám đốc xí nghiệp có trách nhiệm nghiêm chỉnh thi hành thể lệ Nhà nước, lập kế hoạch sử dụng nhưng phải được Công đoàn và công nhân viên tham gia ý kiến một cách rộng rãi. Giám đốc xí nghiệp định kỳ báo cáo tình hình thu-chi quỹ tiền thưởng xí nghiệp trước Đại hội đại biểu công nhân viên chức.

5. Công đoàn cơ sở cần phối hợp chặt chẽ với Giám đốc xí nghiệp trong việc lập kế hoạch sử dụng, giáo dục công nhân hiểu rõ tính chất, mục đích của quỹ tiền thưởng và tổ chức cho công nhân nhân viên tham gia lập lao động sử dụng được thích đáng, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện và báo cáo với quần chúng.

6. Các Bộ, các ngành đề ra phương hướng sử dụng đồng thời kiểm tra đôn đốc việc thực hiện cho đúng hướng đúng yêu cầu, tránh tình trạng xét duyệt quá chi tiết, hạn chế việc phát huy sách kiến của cơ sở làm chậm trễ hoặc trở ngại cho việc sử dụng quỹ tiền thưởng.

II. HƯỚNG SỬ DŨNG QUỸ TIỀN THƯỞNG XÍ NGHIỆP

A. PHÚC LỢI TẬP THỂ

Thông tư 133 quy định “Phí tổn dùng vào việc cải thiện hoặc xây dựng các sự nghiệp về văn hóa và phúc lợi cho công nhân (như nhà ở, nhà ăn, nhà giữ trẻ, bệnh viện câu lạc bộ và những xây dựng về thể thao thể dục…) có thể chiếm độ 50% so với số tiền thưởng xí nghiệp được trích trong kỳ kế hoạch”.

- Việc chi tiêu về những khoản phúc lợi nói trên hàng năm đã có dự trù theo kế hoạch Nhà nước quy định cho từng xí nghiệp, những tình hình và yêu cầu về đời sống của mỗi đơn vị có đặc điểm khác nhau mà khả năng quỹ Nhà nước không đủ chi tiêu; số tiền 50% tiền thưởng dùng để bổ sung cho thích hợp. Tuy nhiên số tiền cũng có hạn mà yêu cầu còn nhiều nên phải tập trung giải quyết có trọng điểm việc nào cấp thiết hoặc có tác dụng cải thiện cho nhiều người thì làm trước, việc nào chưa cần thiết thì chưa làm, không phân tán chi tiêu ra nhiều việc vụn vặt.

Thí dụ: Đơn vị ở rừng núi, xa đô thị trước tiên cần chú trọng tổ chức việc ăn uống giải trí cho tốt. Ở những xí nghiệp có nhiều phụ nữ có con chú trọng tổ chức và chấn chỉnh nhà giữ trẻ, vườn trẻ tạo điều kiện cho chị em an tâm sản xuất. Các xí nghiệp có nhiều công nhân ở xa thường xuyên phải làm ca, làm kíp thì tổ chức nghỉ trưa, tối, quán cơm lao động v .v…

Khi sử dụng quỹ phúc lợi không những chỉ chú ý những người ăn ở tập thể mà còn phải lưu ý đến những người ăn ở ngoài nữa.

Tóm lại việc sử dụng quỹ phúc lợi tập thể phải tùy hoản cảnh tính chất của mỗi xí nghiệp, tùy sự cần thiết từng thời gian, giám đốc xí nghiệp phối hợp chặt chẽ với Công đoàn. Đoàn Thanh niên Lao động và tranh thủ ý kiến của công nhân viên chức một cách rộng rãi mà định kế hoạch cho sát, phải nhằm trọng tâm trọng điểm giải quyết để có tác dụng thiết thực cải thiện đời sống cho công nhân viên chức.

B. CẢI TIẾN HOẶC BỔ SUNG THIẾT BỊ SẢN XUẤT VÀ THIẾT BỊ AN TOÀN LAO ĐỘNG

Thông tư 133 quy định: “Phí tổn dùng vào việc cải tiến, hoặc bổ sung thiết bị sản xuất và thiết bị an toàn lao động chiếm độ 20% so với số tiền thưởng xí nghiệp được trích trong kỳ thực hiện kế hoạch”

Trong kế hoạch hàng năm của xí nghiệp, đã có dự trù khoản chi phí thiết bị sản xuất và thiết bị an toàn lao động. Vì vậy khoản 20% được trích trong số tiền thưởng nhằm để bổ sung thêm cho dự trù sẵn có của đơn vị, để mở rộng phạm vi thực hiện thiết bị an toàn lao động và thiết bị sản xuất để cải thiện điều kiện lao động làm cho công nhân kịp thời cải tiến dụng cụ đưa năng suất lên cao tạo điều kiện vựôt kế hoạch sản xuất nhiều hơn.

Thí dụ: Trường hợp một số khoản nào do xí nghiệp đã dự trù để cải tiến điều kiện lao động vì hoàn cảnh chung Nhà nước không duyệt y, nay nhờ có tiền thưởng xí nghiệp cần thiết chi để thiết bị thêm. Những công việc đột xuất không có ghi trong kế hoạch hoặc trong lúc xây dựng theo kế hoạch thiếu tiền, nay có thể dùng số 20% tiền thưởng để chi đặng kịp thời cải thiện điều kiện lao động cho công nhân viên chức.

Các xí nghiệp cần phát huy khả năng sáng tạo của công nhân, động viên công nhân dùng số tiền đó mà góp phần thêm công sức của mình để cải tiến điều kiện lao động cho được nhiều.

Mặt khác mỗi khi làm kế hoạch không thể căn cứ vào xí nghiệp đã có khoản tiền thưởng mà không chú ý dự trù những khoản chi phí cần thiết về thiết bị sản xuất và an toàn trong kế hoạch hàng năm.

[...]