Thông báo hiệu lực của Thỏa thuận sửa đổi Hiệp định nhằm loại trừ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán giữa Việt Nam và Cam-pu-chia
Số hiệu | 40/2014/TB-LPQT |
Ngày ban hành | 28/09/2012 |
Ngày có hiệu lực | 12/05/2014 |
Loại văn bản | Điều ước quốc tế |
Cơ quan ban hành | Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,Chính phủ Hoàng gia Cam pu chia |
Người ký | Trần Đại Quang,Ing Kantha Phavi |
Lĩnh vực | Trách nhiệm hình sự,Văn hóa - Xã hội |
BỘ NGOẠI GIAO |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 40/2014/TB-LPQT |
Hà Nội, ngày 24 tháng 06 năm 2014 |
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại Khoản 3, Điều 47 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Thỏa thuận về sửa đổi, bổ sung Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Cam-pu-chia nhằm loại trừ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán, ký tại TP. Hồ Chí Minh ngày 28 tháng 9 năm 2012, có hiệu lực kể từ ngày 12 tháng 5 năm 2014.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao thỏa thuận theo quy định tại Điều 68 của Luật nêu trên./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG |
VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HIỆP ĐỊNH GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ HOÀNG GIA CĂM-PU-CHIA ĐỂ LOẠI TRỪ NẠN BUÔN BÁN PHỤ
NỮ, TRẺ EM
VÀ GIÚP ĐỠ NẠN NHÂN BỊ BUÔN BÁN
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Căm-pu-chia (Sau đây được gọi tắt là “hai Bên”);
Căn cứ Điều 16 của Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia vương quốc Căm-pu-chia về hợp tác song phương để loại trừ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán ký tại Hà Nội ngày 10 tháng 10 năm 2005;
Căn cứ các Biên bản Hội nghị rà soát, sửa đổi, bổ sung Hiệp định giữa các cơ quan chức năng hai nước Việt Nam - Căm-pu-chia ngày 19 - 20 tháng 9 năm 2011 tại Siêm-Riệp, Căm-pu-chia và ngày 27 - 28 tháng 9 năm 2012 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam;
Đã Thỏa thuận nội dung sửa đổi, bổ sung Hiệp định kể trên như sau:
Điều 1. Tên Hiệp định được sửa đổi như sau: “Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Căm-pu-chia về hợp tác song phương trong phòng, chống buôn bán người và bảo vệ nạn nhân bị buôn bán”.
Điều 2. Trong toàn bộ Hiệp định, sửa cụm từ “phụ nữ trẻ em” thành cụm từ “người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em”.
Điều 3. Một số sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ cụ thể như sau:
1. Sửa đổi các khoản 5, 7, 11 của Điều 2 và bổ sung khoản 12 vào Điều 2 của Hiệp định đã ký ngày 10 tháng 10 năm 2005 cụ thể như sau:
“5. Hôn nhân với mục đích xấu.
7. Du lịch và giải trí tình dục, đặc biệt trẻ em.
11. Sử dụng ma túy là phương tiện để làm cho người khác, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em trở thành nô lệ.
12. Để lấy bộ phận cơ thể.”
2. Sửa đổi Điều 3 của Hiệp định đã ký ngày 10 tháng 10 năm 2005 như sau:
“Hai Bên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết và thích hợp để đảm bảo thực hiện khuôn khổ pháp lý trong phạm vi quyền tài phán của mình phù hợp với Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Công ước về Quyền trẻ em, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các văn kiện về nhân quyền cũng như các Công ước khác liên quan tới trấn áp nạn buôn bán người mà hai Bên đã ký kết hoặc là thành viên”.
3. Bổ sung khoản 5 và khoản 6 vào Điều 4 của Hiệp định đã ký ngày 10 tháng 10 năm 2005 như sau:
“5. Tăng cường quản lý, kiểm soát xuất nhập cảnh và phối hợp tuần tra kiểm soát biên giới, cửa khẩu phù hợp với pháp luật nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi buôn bán người.
6. Khuyến khích sự tham gia và hợp tác của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân và các cá nhân trong phòng, chống buôn bán người, bóc lột tình dục, bóc lột lao động và lao động cưỡng bức, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em”.
4. Sửa đổi tiêu đề Phần III của Hiệp định đã ký ngày 10 tháng 10 năm 2005 như sau: “Bảo vệ nạn nhân và quyền của nạn nhân bị buôn bán”.