Thông báo hiệu lực của Nghị định thư thứ hai của Hiệp định giữa Việt Nam và Hồng Kông về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập
Số hiệu | 13/2015/TB-LPQT |
Ngày ban hành | 14/01/2014 |
Ngày có hiệu lực | 08/01/2015 |
Loại văn bản | Điều ước quốc tế |
Cơ quan ban hành | Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,Chính quyền khu hành chính đặc biệt Hồng Kông |
Người ký | Đỗ Hoàng Anh Tuấn,K.C. Chan |
Lĩnh vực | Thuế - Phí - Lệ Phí |
BỘ NGOẠI GIAO |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 13/2015/TB-LPQT |
Hà Nội, ngày 26 tháng 03 năm 2015 |
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 47 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Nghị định thư thứ hai của Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính quyền khu hành chính đặc biệt Hồng Kông của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập ký tại Hồng Kông ngày 13 tháng 01 năm 2014, có hiệu lực kể từ ngày 08 tháng 01 năm 2015.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao Nghị định thư theo quy định tại Điều 68 của Luật nêu trên./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG |
NGHỊ ĐỊNH THƯ THỨ HAI CỦA HIỆP ĐỊNH
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VÀ
CHÍNH QUYỀN KHU HÀNH CHÍNH ĐẶC BIỆT HỒNG KÔNG CỦA NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA
MONG MUỐN ký kết một Nghị định thư sửa đổi Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính quyền Khu Hành chính đặc biệt Hồng Kông của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập, được ký ngày 16/12/2008 tại Hà Nội (sau đây gọi là Hiệp định),
ĐÃ THỎA THUẬN DƯỚI ĐÂY:
Nội dung Điều 25 của Hiệp định được xóa bỏ và thay thế như sau:
“1. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Bên ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin dự kiến có thể cần thiết cho việc triển khai thực hiện những quy định của Hiệp định này hoặc việc quản lý hoặc thực thi nội luật của các Bên ký kết liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng để sao cho việc đánh thuế theo nội luật không trái với Hiệp định này. Việc trao đổi thông tin không bị hạn chế bởi Điều 1.
2. Mọi thông tin do một Bên ký kết nhận được theo khoản 1 sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo nội luật của Bên này và thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng (bao gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế được đề cập tại khoản 1. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể cung cấp các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của tòa án, hoặc trong các quyết định của tòa án, bao gồm, trong trường hợp của Khu Hành chính đặc biệt Hồng Kông, là quyết định của Ủy ban Thẩm tra lại. Thông tin sẽ không được cung cấp cho bất kỳ bên tài phán thứ ba nào với bất kỳ mục đích nào.
3. Không có trường hợp nào mà những quy định tại khoản 1 và 2 được giải thích là buộc một Bên ký kết có nghĩa vụ:
(a) thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật pháp hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Bên ký kết đó hoặc của Bên ký kết kia.
(b) cung cấp các thông tin không thể tiết lộ được theo các luật hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Bên ký kết đó hoặc của Bên ký kết kia.
(c) cung cấp các thông tin có thể làm tiết lộ bí mật về mua bán, kinh doanh, công nghiệp, thương mại hoặc bí mật nghề nghiệp hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc tiết lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước (ordre public).
4. Nếu thông tin do một Bên ký kết yêu cầu phù hợp với Điều này, Bên ký kết kia sẽ sử dụng các biện pháp thu thập thông tin của mình để có được các thông tin theo yêu cầu, mặc dù Bên kia có thể không cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của mình. Nghĩa vụ được quy định tại câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản 3 nhưng trong mọi trường hợp, các giới hạn này không được giải thích là cho phép một Bên ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ vì Bên ký kết đó không có lợi ích trong nước đối với các thông tin như vậy.
5. Không có trường hợp nào mà những quy định tại khoản 3 được giải thích là cho phép một Bên ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ vì thông tin do một ngân hàng, tổ chức tài chính, đối tượng được chỉ định hoặc đối tượng với tư cách đại lý hoặc đối tượng được ủy thác khác nắm giữ hoặc chỉ vì thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu trong một đối tượng”.
(a) tại Việt Nam: