Thông báo 348/TB-VPCP năm 2022 về kết luận của Phó Thủ tướng Lê Minh Khái tại Hội nghị giao ban Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 348/TB-VPCP |
Ngày ban hành | 10/11/2022 |
Ngày có hiệu lực | 10/11/2022 |
Loại văn bản | Thông báo |
Cơ quan ban hành | Văn phòng Chính phủ |
Người ký | Trần Văn Sơn |
Lĩnh vực | Doanh nghiệp |
VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 348/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2022 |
Ngày 19 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Trưởng ban Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp (Ban Chỉ đạo) đã chủ trì Hội nghị giao ban Ban Chỉ đạo về tình hình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020, năm 2021 đến nay, kiến nghị một số nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới. Tham dự Hội nghị có các thành viên Ban Chỉ đạo; lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Giao thông vận tải, Xây dựng, Công Thương, Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương; đại diện Văn phòng Trung ương Đảng, các Bộ, cơ quan: Quốc phòng, Công an, Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tin và Truyền thông, Tư pháp, Nội vụ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; lãnh đạo một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước (DNNN).
Sau khi nghe Thường trực Ban Chỉ đạo báo cáo tổng hợp và ý kiến phát biểu của các đại biểu dự Hội nghị, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Trưởng ban Ban Chỉ đạo kết luận như sau:
1. Giai đoạn 2016 đến nay, các cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật về quản lý, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN tiếp tục được hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung khá đầy đủ, đồng bộ theo hướng ngày càng chặt chẽ, công khai, minh bạch hơn, đồng thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Tiêu chí phân loại DNNN, đơn vị sự nghiệp công lập, Đề án cơ cấu lại DNNN… được chỉ đạo xây dựng, phê duyệt, ban hành kịp thời, làm cơ sở cho các bộ ngành, địa phương sớm xây dựng kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp cho giai đoạn 2021-2025.
2. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo sát sao, quyết liệt; chủ trì nhiều cuộc họp, hội nghị doanh nghiệp toàn quốc, trực tiếp làm việc với nhiều bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp để chỉ đạo, cho ý kiến về xây dựng cơ chế, chính sách, hoàn thiện pháp luật , nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, về công tác sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp của một số cơ quan, đơn vị; tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh dịch COVID-19.
3. Giai đoạn 2016-2020, cả nước đã cổ phần hóa 180 doanh nghiệp với quy mô vốn nhà nước được xác định lại tăng 23,3 % so với giai đoạn 2011 -2015; đã thoái vốn 27.312 tỷ đồng, thu về 177.397 tỷ đồng, gấp 6,5 lần giá trị sổ sách, cao hơn so với giai đoạn 2011-2015 cả về giá trị và hiệu quả thoái vốn; tổng số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn đạt trên 220.000 tỷ đồng, gấp 2,8 lần giai đoạn 2011-2015. Nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn được quản lý tập trung, sử dụng hiệu quả, chuyển vào Ngân sách Nhà nước theo đúng Nghị quyết của Quốc hội.
4. Các DNNN, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được sắp xếp lại tinh gọn hơn, nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước; có vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, quốc tế khác được Đảng và Nhà nước giao. Trong bối cảnh dịch COVID-19, các DNNN, tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã khắc phục khó khăn, nỗ lực hoàn thành cao nhất kế hoạch sản xuất, kinh doanh, bảo đảm việc làm, thu nhập cho người lao động, đóng góp lớn cho công tác phòng chống dịch.
5. Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ đạt một số kết quả tích cực; số doanh nghiệp thành lập mới các năm gần đây đạt mức cao, số doanh nghiệp thành lập mới 9 tháng năm 2022 đạt mức cao nhất từ trước đến nay; tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động/1.000 dân tăng qua các năm…, góp phần hình thành khu vực doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
II. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
1. Bên cạnh các kết quả đạt được, còn một số tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục trong thời gian tới.
Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn chưa đạt kế hoạch đề ra. Việc phê duyệt, triển khai Đề án cơ cấu lại DNNN; chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước; đăng ký giao dịch, niêm yết; quyết toán bàn giao sang công ty cổ phần còn chậm. Các quy định liên quan đến công tác sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp còn gặp vướng mắc, khó khăn trong triển khai, chưa được tháo gỡ kịp thời dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện, nhất là các nội dung về sắp xếp, phê duyệt phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị quyền sử dụng đất, thương hiệu, truyền thống, văn hóa, lịch sử để cổ phần hóa, thoái vốn.
Hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn tồn tại, khó khăn, vướng mắc. Một số DNNN sản xuất, kinh doanh hiệu quả thấp, thua lỗ, chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, còn có những dự án chưa hiệu quả, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác đổi mới quản trị của một số DNNN chưa theo kịp với yêu cầu biến động của thị trường; công tác quản lý đầu tư, quản lý tài chính chưa chặt chẽ, hiệu quả; công tác quản lý rủi ro, thực hành tiết kiệm còn hạn chế; chế độ đãi ngộ và xử lý trách nhiệm chưa tạo được động lực gắn với trách nhiệm theo cơ chế thị trường.
Do tác động tiêu cực của dịch COVID-19, năm 2020, 2021 số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm so với năm 2019, hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn; không đạt được mục tiêu cả nước có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020 theo Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ.
2. Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nguyên nhân từ việc một số cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật liên quan chưa rõ ràng, phù hợp, gây lúng túng trong triển khai; việc xây dựng kế hoạch sắp xếp DNNN còn chậm, chưa sát với thực tế; một số bộ, ngành, địa phương, và doanh nghiệp nhà nước chưa chủ động, quyết liệt trong tổ chức thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các kế hoạch đề ra; còn hiện tượng viện dẫn vào các khó khăn, vướng mắc để chậm, không thực hiện; chưa xem xét đúng mức trách nhiệm của người đứng đầu. Việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong triển khai Luật Đất đai, Luật Quản lý sử dụng tài sản công chưa nghiêm túc, thường xuyên; nhiều doanh nghiệp chỉ đến khi thực hiện cổ phần hóa mới thực hiện sắp xếp, xử lý đất đai theo quy định, dẫn đến làm chậm quá trình cổ phần hóa.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn trong giai đoạn này có quy mô lớn, còn tồn tại về tài chính, nhiều đất đai, phạm vi hoạt động rộng nên việc xử lý tài chính, phê duyệt phương án sử dụng đất, xác định giá trị doanh nghiệp, bán cổ phần lần đầu gặp khó khăn, thời gian kéo dài; một số quy định mới về sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn được ban hành theo hướng chặt chẽ, công khai, minh bạch, bảo đảm tối đa lợi ích của Nhà nước hơn nên cần thời gian để thực hiện. Dịch COVID-19 ảnh hưởng toàn diện đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, tác động tiêu cực đến nguồn lực của các nhà đầu tư và việc triển khai công tác sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp.
III. Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong thời gian tới
1. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có kết quả Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nghị quyết số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, các Nghị quyết của Quốc hội, các Nghị quyết của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tạo sự nhất trí cao và có hành động quyết liệt, cụ thể trong thực hiện.
2. Tiếp tục triển khai có kết quả các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý bảo đảm chặt chẽ, khả thi, đồng thời thúc đẩy công tác sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu hoạt động của DNNN và phát triển kinh tế tư nhân.
3. Tổng kết đánh giá, xác định rõ mặt được, chưa được, nguyên nhân của công tác hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trong thời gian qua; đề ra các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2022-2025 để doanh nghiệp tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.
4. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại DNNN và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2022-2025, với phương châm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; quyết liệt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó; gắn với việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, rõ trách nhiệm từng cá nhân và thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát.
5. Tăng cường công khai, minh bạch thông tin về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN để tạo niềm tin, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trước khi triển khai công tác cổ phần hóa, thoái vốn.
6. Các Bộ, cơ quan theo chức năng nhiệm vụ được giao nghiên cứu kiến nghị của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tại Hội nghị để tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn theo thẩm quyền; trường hợp vượt thẩm quyền, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
7. Thường trực Ban Chỉ đạo chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tổng kết đánh giá công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước trong thời gian qua.
8. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương sớm hoàn thiện Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
9. Bộ Tài chính:
- Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (sửa đổi) để trình Quốc hội như quy định tại Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2022.