Thông tư 351-KHCS-1982 hướng dẫn Quyết định 146-HĐBT-1982 sửa đổi Quyết định 25-CP-1981 về phần giá thành và giá cả do Ủy ban Vật giá Nhà nước ban hành
Số hiệu | 351-KHCS |
Ngày ban hành | 09/09/1982 |
Ngày có hiệu lực | 24/09/1982 |
Loại văn bản | Thông tư |
Cơ quan ban hành | Uỷ ban Vật giá Nhà nước |
Người ký | Đoàn Trọng Truyến |
Lĩnh vực | Doanh nghiệp,Kế toán - Kiểm toán |
UỶ
BAN VẬT GIÁ NHÀ NƯỚC |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 351-KHCS |
Hà Nội, ngày 09 tháng 9 năm 1982 |
Ngày 25 tháng 8 năm 1982, Hội đồng bộ trưởng đã có quyết định số 146-HĐBT về việc sửa đổi và bổ sung quyết định số 25-CP. Uỷ ban Vật giá Nhà nước hướng dẫn thực hiện quyết định trên của Hội đồng bộ trưởng về phần giá thành và giá cả như sau.
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC, CĂN CỨ XÁC ĐỊNH GIÁ VẬT TƯ KỸ THUẬT ĐƯA VÀO SẢN XUẤT ĐỂ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1. Đối với vật tư do Nhà nước cung ứng, thì dù được cung ứng đủ hay một phần và dùng để sản xuất sản phẩm thuộc phần kế hoạch do Nhà nước giao được cân đối vật tư chủ yếu hay phần kế hoạch bổ sung, đều tính theo giá chỉ đạo hiện hành của Nhà nước. Máy, thiết bị, nhà xưởng... dùng vào sản xuất sản phẩm của phần kế hoạch, do xí nghiệp xây dựng bổ sung cũng trích khấu hao theo tỷ lệ như đối với sản phẩm sản xuất của phần kế hoạch do Nhà nước giao.
2. Đối với vật tư xí nghiệp tự kiếm, kể cả vật tư dùng để sản xuất sản phẩm thuộc phần kế hoạch Nhà nước giao và vật tư dùng để sản xuất sản phẩm thuộc phần kế hoạch bổ sung, đều được tính toán và quy định theo các nguyên tắc sau đây:
a). Đối với các nguyên liệu nông, lâm, hải sản sau khi hợp tác xã, nông dân và địa phương đã hoàn thành xong các chỉ tiêu kế hoạch thu mua theo nghĩa vụ hay hợp đồng hai chiều thì xí nghiệp được mua theo giá thoả thuận trong một khung giá tối đa, tối thiểu do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu quy định có sự hướng dẫn về nguyên tắc và phương pháp của Uỷ ban Vật giá Nhà nước. Khi quy định khung giá nói trên cần tính đến:
- Giá thành hợp lý cả sản phẩm;
-Lợi nhuận thoả đáng dành cho người sản xuất;
- Có chênh lệch giá hợp lý giữa các thời vụ, các khu vực và các vùng giáp ranh của các địa phương;
- Tham khảo giá thị trường và kết hợp với việc trao đổi hàng công nghiệp để không đẩy giá lên cao, gây tác động tiêu cực đối với nên kinh tế;
- Việc sản xuất ra sản phẩm từ nguyên liệu đó có hiệu quả hay không, trong đó phải bảo đảm nguồn thu tối thiểu cho ngân sách Nhà nước, không được lỗ.
b). Đối với các loại vật tư, nguyên liệu không phải do Nhà nước thống nhất quản lý và không phải của Nhà nước nhưng có lưu thông trên thị trường (do tồn kho của tư nhân, do kiều bào, lưu học sinh gửi từ nước ngoài về...) thì xí nghiệp được mua theo giá thoả thuận.
c). Vật tư, nguyên liệu do các xí nghiệp quốc doanh nhượng lại cho nhau thì áp dụng giá hướng dẫn của Nhà nước như điều 7 và điều 8 của Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh đã quy định; cụ thể là giá nhượng lại bằng giá chỉ đạo mua vật tư của kế hoạch (giá mới) cộng với các chi phí vận chuyển, bốc xếp, bảo quản hợp lý.
Khi xác định các chi phí này, cần tính đủ các chi phí đã phát sinh mà thực tế xí nghiệp có tài sản nhượng lại đã phải chi; xí nghiệp có tài sản nhượng lại không được tính thêm các chi phí bất hợp lý, những chi phí đáng ra phải tính vào các loại vật tư khác...
d). Vật tư do xí nghiệp địa phương tự nhập khẩu, hiện nay nhiều địa phương và xí nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu với tỷ giá hối đoái rất cao. Do đó giá vật tư nhập khẩu thường bị đẩy lên rất cao, gấp nhiều lần so với giá Nhà nước quy định.
Vì vậy, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tổ chức lại hoạt động xuất, nhập khẩu sao cho vừa khuyến khích đẩy mạnh xuất nhập khẩu, vừa bảo đảm có hiệu quả kinh tế. Chỉ có trên cơ sở đó mới có điều kiện xác định giá cả vật tư hàng hoá nhập khẩu, một cách có kế hoạch và giữ được tính ổn định cần thiết.
Trước mắt việc xác định giá vật tư, nguyên liệu do địa phương và xí nghiệp tự nhập khẩu tạm thời theo nguyên tắc sau đây:
- Nếu là loại vật tư quan trọng và có khối lượng tương đối lớn, dùng để sản xuất các loại hàng quan trọng theo kế hoạch Nhà nước và thuộc loại vật tư do Nhà nước thống nhất quản lý giá, thì vô luận là phần kế hoạch do Nhà nước giao được cân đối vật tư chủ yếu hay phần kế hoạch bổ sung, thì tính vào giá thành theo giá chỉ đạo của Nhà nước. Khoản chênh lệch giữa giá vật tư thực nhập so với giá chỉ đạo của Nhà nước được giải quyết theo các cách sau đây:
Dùng chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu để cân đối.
Xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp hoặc địa phương tự bù trừ bằng nguồn thu của mình để bảo đảm thu quốc doanh của Nhà nước.
Trường hợp không cân đối được, xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp hoặc địa phương bị thua lỗ thì báo cáo với các cơ quan tài chính, vật giá xem xét và kiến nghị lên cơ quan có thẩm quyền quyết định giảm mức thu quốc doanh.
- Nếu là loại vật tư dùng để sản xuất các sản phẩm không thuộc diện Nhà nước thống nhất quản lý thì xí nghiệp được tính vào giá thành theo giá nhập được cơ quan vật giá địa phương xét duyệt; địa phương và xí nghiệp không được tự tính toán theo phương pháp riêng của mình và không được tuỳ tiện nâng giá hàng nhập để hạch toán vào giá thành.
3. Vật tư là phế liệu, phế phẩm, vật tư thanh lý thì xí nghiệp được tính theo giá do hội đồng thanh lý quy định và được hai bên mua bán thoả thuận, nhưng không được định cao hơn giá vật tư chính phẩm. Nghiêm cấm việc biến vật tư chính phẩm thành phế liệu.
4. Mức tiêu hao nguyên liêu, nhiên liệu, năng lượng tính vào giá thành phải theo các định mức hợp lý về hao phí vật tư, như nghị định số 201-CP ngày 26-5-1981 của Hội đồng Chính phủ về công tác định mức kinh tế - kỹ thuật đã quy định.
5. Do có hai nguồn vật tư (do Nhà nước cung ứng và do xí nghiệp tự kiếm) dẫn đến cùng một loại vật tư dùng để sản xuất một loại sản phẩm, nhưng giá vật khác nhau. Vì vậy xí nghiệp cần tổ chức hạch toán riêng, chi phí về hai loại vật tư này trong giá thành của sản phẩm để tiện cho việc theo dõi, kiểm tra.
1. Đối với sản phẩm mà Nhà nước thống nhất quản lý giá thì dù sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu do Nhà nước cung ứng hay chủ yếu do xí nghiệp tự kiếm, xí nghiệp đều phải lập phương án và tờ trình lên cấp có thẩm quyền quyết định theo điều lệ phân công, phân cấp quản lý giá.