TỔNG
CỤC THỐNG KÊ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
1367-XDKH/CN
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 10 năm 1982
|
THÔNG TƯ
CỦA TỔNG CỤC THỐNG KÊ SỐ 1367-XDKH/CN NGÀY 28 THÁNG 10 NĂM
1982 HƯỚNG DẪN CÔNG TÁC XÉT DUYỆT HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SẢN XUẤT
CÔNG NGHIỆP THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 146-HĐBT NGÀY 25 THÁNG 8 NĂM 1982 CỦA HỘI ĐỒNG BỘ
TRƯỞNG
Ngày 25 tháng 8 năm 1982 Hội đồng
Bộ trưởng đã ra Quyết định số 146-HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số
25-CP ngày 21 tháng 1năm 1981 của Hội đồng Chính phủ.
Theo trách nhiệm được Hội đồng Bộ
trưởng giao, sau khi trao đổi thống nhất với Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương; Tổng cục thống kê hướng dẫn một số điểm
cụ thể bổ sung về công tác kiểm tra xét duyệt hoàn thành kế hoạch đối với các
đơn vị sản xuất công nghiệp theo Quyết định số 146- HĐBT như sau:
I. ĐỐI TƯỢNG
KIỂM TRA, XÉT DUYỆT HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH
Đối tượng kiểm tra, xét duyệt
hoàn thành kế hoạch là tất cả các xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp, Liên hiệp các
xí nghiệp do các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực tiếp quản
lý và giao kế hoạch sản xuất công nghiệp. Đối với các xí nghiệp trực thuộc Liên
hiệp các xí nghiệp quản lý thì Liên hiệp các xí nghiệp kiểm tra, đánh giá mức độ
hoàn thành kế hoạch của từng xí nghiệp để làm cơ sở cho việc thi hành các chế độ
thưởng, phạt theo chế độ Nhà nước, trong phạm vi nội bộ Liên hiệp các xí nghiệp.
II. CĂN CỨ ĐỂ
KIỂM TRA, XÉT DUYỆT HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH
Căn cứ để kiểm tra, xét duyệt
hoàn thành kế hoạch đối với các đơn vị sản xuất công nghiệp là hệ thống chỉ
tiêu kế hoạch mà Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân thành phố, tỉnh giao cho đơn vị
(vào đầu năm hoặc điều chỉnh trước ngày 30 tháng 9) theo Nghị định số 143-CP
ngày 13-5-1980 của Hội đồng Chính phủ, và số liệu thực hiện các chỉ tiêu đó
trong kỳ kế hoạch đã được xí nghiệp hạch toán theo đúng phương pháp, chế độ Nhà
nước quy định trong cả hai phần sản xuất chính và sản xuất phụ.
Đối với Liên hiệp các xí nghiệp,
thì số liệu thực hiện các chỉ tiêu phải là của toàn liên hiệp được hạch toán
trên cơ sở kết quả phát sinh của phần sản xuất, kinh doanh công nghiệp của các
xí nghiệp thuộc liên hiệp và phải có đầy đủ chứng từ, quyết toán của cơ sở kèm
theo.
III. NGUYÊN TẮC
KIỂM TRA, XÉT DUYỆT HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH
Khi xác định mức hoàn thành các
chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước của đơn vị cơ sở, các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt
kế hoạch phải tôn trọng các nguyên tắc sau đây:
1. Phải bảo đảm tính thống nhất
về nội dung và phương pháp tính khi so sánh giữa chỉ tiêu thực hiện với chỉ
tiêu kế hoạch.
2. Phải kiểm tra xem xét đầy đủ
các quyết toán chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao được cung ứng đủ vật tư chủ yếu,
và các chỉ tiêu kế hoạch bổ sung do xí nghiệp tự tìm kiếm vật tư, cũng như sản
xuất phụ. Đồng thời phải kiểm tra xem xét việc thi hành đúng đắn các chính sách
và chế độ của Nhà nước về quản lý vật tư, tài chính, ngoại tệ, tiền mặt, thị
trường, giá cả.
IV. HƯỚNG DẪN
BỔ SUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH VÀ XÁC NHẬN MỨC HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH MỘT SỐ CHỈ TIÊU
CHỦ YẾU
1. Giá trị sản lượng hàng hoá
thực hiện (trong đó giá trị sản lượng hàng hoá xuất khẩu)
Giá trị sản lượng hàng hoá thực
hiện là biểu hiện bằng tiền của khối lượng sản phẩm do xí nghiệp sản xuất ra và
đã tiêu thụ, tức là thu được tiền hoặc giấy báo trả tiền của ngân hàng, tính
theo giá bán buôn xí nghiệp.
Khối lượng sản phâm tiêu thụ đó
bao gồm những sản phẩm xuất từ kho thành phẩm của xí nghiệp và các công việc có
tính chất công nghiệp đã hoàn thành theo đúng hợp đồng đã được khách hàng chấp
nhận thanh toán và đã thu được tiền.
Các trường hợp tiêu thụ sau đây
mặc dầu đã hạch toán trong doanh thu của xí nghiệp nhưng không được tính trong
giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện:
- Sản phẩm không qua trực tiếp
chế biến của xí nghiệp.
- Sản phẩm sản xuất ra chưa kiểm
nghiệm nhập kho thành phẩm, nhưng đã tiêu thụ.
- Sản phẩm sản suất ra đã tiêu
thụ, nhưng chưa nhận được tiền của khách hàng hoặc giấy báo trả tiền của Ngân
hàng.
- Sản phẩm sản xuất ra đã tiêu
thụ nhưng bị khách hàng trả lại do không đạt quy cách, phẩm chất quy định trong
hợp đồng.
Trong trường hợp có thay đổi về
giá bán buôn xí nghiệp so với khi lập kế hoạch, thì phải sử dụng giá bán buôn
xí nghiệp khi lập kế hoạch để tính giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện. Đối với
công việc có tính chất công nghiệp thì được sử dụng giá thanh toán ghi trong hợp
đồng, sau khi đã trừ đi thu quốc doanh hoặc thuế phải nộp.
Cần phân biệt giá trị sản lượng
hàng hoá thực hiện giữa phần kế hoạch được Nhà nước cung ứng vật tư chủ yếu với
phần kế hoạch xí nghiệp bổ sung bằng vật tư tự chạy. Nếu không hạch toán riêng
được từng phần, thì phải dùng tỷ trọng chi phí vật tư của Nhà nước cung ứng
tham gia trong việc sản xuất sản phẩm để phân biệt khối lượng sản phẩm tiêu thụ
thuộc kế hoạch Nhà nước. Phương pháp tính này quy định cụ thể ở chỉ tiêu sản phẩm
chủ yếu.
Khi xác nhận mức hoàn thành kế
hoạch chỉ tiêu giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện phải xem xét việc thực hiện
các hợp đồng tiêu thụ của xí nghiệp với khách hàng về thời hạn, khối lượng và
chất lượng hàng hoá phải giao.
Đối với những khách hàng trọng
điểm (do cấp trên quy định), nếu xí nghiệp chưa giao đủ hàng theo hợp đồng đã
ký mà không có lý do chính đáng, thì không được xác nhận là hoàn thành kế hoạch.
2. Sản lượng sản phẩm chủ yếu
theo chỉ tiêu chất lượng quy định; trong đó sản phẩm xuất khẩu;
Việc xác định sản lượng sản phẩm
chủ yếu theo chỉ tiêu chất lượng quy định, trong đó có chỉ tiêu sản lượng sản phẩm
chủ yếu xuất khẩu vẫn theo quy định hiện hành.
Trong trường hợp xí nghiệp có sản
xuất sản phẩm bằng vật tư tự tìm kiếm, nếu có tổ chức dây chuyền sản xuất
riêng, sử dụng vật tư khác chủng loại với vật tư Nhà nước cung ứng, sản phẩm sản
xuất ra không cùng mặt hàng với sản phẩm được Nhà nước cung ứng vật tư thì dựa
trên kết quả hạch toán riêng từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ để phân biệt sản
phẩm được sản xuất thuộc kế hoạch Nhà nước giao và thuộc kế hoạch xí nghiệp bổ
sung (trên cơ sở tự kiếm vật tư).
Đối với những xí nghiệp sản xuất
ra những sản phẩm trong đó vật tư chủ yếu vừa do Nhà nước cung ứng, vừa do xí
nghiệp tự tìm kiếm thêm thì khối lượng sản phẩm sản xuất ở phần kế hoạch do Nhà
nước cung ứng vật tư và phần kế hoạch bổ sung bằng vật tư tự tìm kiếm được xác
định theo tỷ trọng của mỗi phần chi phí vật tư tương ứng (tính theo số lượng hoặc
theo giá chỉ đạo thống nhất) đã tham gia vào việc sản xuất ra sản phẩm đó.
Tỷ trọng chi phí vật tư của Nhà
nước hay của xí nghiệp tự tìm kiếm tham gia trong sản phẩm, nếu chưa hạch toán
được trực tiếp thì căn cứ vào tỷ trọng khối lượng vật tư nhập kho trong kỳ kế
hoạch.
Cách tính theo hai trường hợp
sau đây:
a) Trường hợp năm trước không
có tồn kho vật tư chuyển sang:
Trong năm xí nghiệp nhập kho 100
tấn nguyên liệu chính, trong đó có 70 tấn do Nhà nước cung ứng. Xí nghiệp xuất
50 tấn sản xuất 3000 sản phẩm A. Khối lượng sản phẩm được sản xuất thuộc phần kế
hoạch Nhà nước là:
=
2100 sản phẩm A
Trong năm xí nghiệp tiêu thụ
2000 sản phẩm A; khối lượng sản phẩm tiêu thụ thuộc kế hoạch Nhà nước:
=
1400 sản phẩm A
b) Trường hợp có tồn kho vật
tư năm trước chuyển sang:
Vật tư năm trước chuyển sang là
50 tấn (có 25 tấn của Nhà nước cung ứng). Trong năm xí nghiệp nhập 100 tấn,
trong đó của Nhà nước cung ứng là 70 tấn. Xí nghiệp xuất 50 tấn và sản xuất
3000 sản phẩm A. Tỷ trọng vật tư Nhà nước cung ứng là:
x
100% = 63,3%
Khối lượng sản phẩm được sản xuất
từ vật Nhà nước là:
3000 x 63,3% = 1900 sản phẩm A
Trong năm xí nghiệp xuất 2000 sản
phẩm A; sản phẩm tiêu thụ được sản xuất từ vật tư Nhà nước là 2000 x 63,3% =
1267 sản phẩm A.
Chú ý: nếu có nhiều loại
vật tư chủ yếu thì tính tỷ trọng theo giá trị chỉ đạo thống nhất của Nhà nước.
Nếu có ít nhất một loại sản phẩm
chủ yếu không hoàn thành kế hoạch thì không được xác nhận là hoàn thành kế hoạch
chỉ tiêu sản lượng sản phẩm chủ yếu. Trong trường hợp đó qui ước tính chỉ tiêu
sản lượng sản phẩm chủ yếu bằng giá trị theo giá cố định để xác nhận mức hoàn
thành kế hoạch chung của chỉ tiêu sản lượng sản phẩm chủ yếu nhưng phải loại trừ
phần vượt của những loại sản phẩm vượt kế hoạch. Ví dụ:
Tính
theo hiện vật
|
Kế
hoạch
|
Thực
hiện
|
Phần
trăm (%)
|
Sản phẩm A
|
100
cái
|
110
cái
|
110
|
Sản phẩm B
|
60
cái
|
70
cái
|
116,6
|
Sản phẩm C
|
50
cái
|
40
cái
|
80,0
|
(Giá cố định SPA = 10 đồng; SPB
= 7 đồng; SPC = 4 đồng)
Mức
độ hoàn thành kế hoạch
|
=
|
Thực
hiện
-------------
Kế
hoạch
|
=
|
(100cái
x10đ) + (60cái x 7đ) + (40cái x 4đ)
-----------------------------------------------------
(100cái
x10đ) + (60cái x 7đ) + (40cái x 4đ)
|
x
|
100%
|
=
|
97%
|
3. Lợi nhuận và các khoản nộp
ngân sách.
Chỉ tiêu này phải xét cả hai nội
dung:
a) Lợi nhuận thực hiện là
lợi nhuận phát sinh do kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp trong
năm báo cáo (kể cả những sản phẩm sản xuất trong năm trước nhưng tiêu thụ trong
năm nay).
Cần phân biệt rõ doanh thu thực
hiện do tiêu thụ. Sản phẩm được sản xuất từ các nguồn vật tư khác nhau, dựa vào
khối lượng sản phẩm tiêu thụ đã được phân biệt ở chỉ tiêu giá trị sản lượng
hàng hoá thực hiện để làm căn cứ tính lợi nhuận của các phần kế hoạch.
Việc phân bổ chi phí, tính giá
thành sản phẩm tiêu thụ, trên cơ sở đó tính lợi nhuận thực hiện phải theo đúng
phương pháp hoạch toán do Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê quy định.
b) Các khoản nộp ngân sách
bao gồm nộp lợi nộp lợi nhuận, nộp khấu hao cơ bản, nộp thu quốc doanh (hoặc
thuế) và các khoản nộp khác có ghi trong kế hoạch.
- Lợi nhuận nộp ngân sách bao gồm
lợi nhuận năm trước chuyển sang nộp trong năm nay và lợi nhuận phát sinh nộp
trong năm nay, sau khi đã trừ các khoản để lại trích các quỹ của xí nghiệp theo
chế độ Nhà nước quy định.
Khi xác nhận mức hoàn thành kế
hoạch lợi nhuận nộp ngân sách thuộc phần Nhà nước cung ứng vật tư chủ yếu, phải
căn cứ vào kế hoạch đã giao không được tính lại kế hoạch nộp lợi nhuận của xí
nghiệp theo số phát sinh. Riêng lợi nhuận của phần kế hoạch xí nghiệp bổ sung
trên cơ sở tự tìm kiếm vật tư và kế hoạch sản xuất phụ nếu có phát sinh thì xí
nghiệp phải nộp theo tỷ lệ quy định trong Quyết định số 146-HĐBT (tỷ lệ nộp lợi
nhuận kế hoạch bổ sung đối với xí nghiệp công nghiệp nặng, khai thác gỗ, đánh
cá biển là 40%; đối với xí nghiệp công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến lương
thực thực phẩm là 50%; tỷ lệ nộp lợi nhuận kế hoạch sản xuất phụ là 30% đối với
tất cả các loại xí nghiệp). Nếu xí nghiệp có dùng lợi nhuận kế hoạch bổ sung để
nộp vào kế hoạch Nhà nước cung ứng vật tư thì tỷ lệ tính trên cơ sở số lợi nhuận
còn lại.
Chỉ tiêu lợi nhuận và các khoản
nộp ngân sách được xác nhận là hoàn thành kế hoạch khi phần lợi nhuận của cả kế
hoạch Nhà nước giao có cung ứng vật tư nộp đạt kế hoạch và lợi nhuận của kế hoạch
bổ sung và của kế hoạch sản xuất phụ nộp đạt tỷ lệ quy định.
- Thu quốc doanh hoặc thuế. Xí
nghiệp phải nộp hết số thu quốc doanh hoặc thuế phát sinh trong quá trình tiêu
thụ sản phẩm. Cụ thể như sau:
Thu quốc doanh phát sinh do tiêu
thụ sản phẩm được sản xuất từ vật tư chủ yếu của Nhà nước cung ứng, xí nghiệp
phải nộp hết theo số phát sinh thì mới được xác nhận là hoàn thành kế hoạch
(trường hợp đã nộp hết số thu quốc doanh theo số phát sinh mà còn thấp hơn kế
hoạch thì cũng không được xác nhận là hoàn thành kế hoạch).
Thu quốc doanh phát sinh do tiêu
thụ sản phẩm được sản xuất từ vật tư tự tìm kiếm mà xí nghiệp không nộp hết thì
cũng không được xác nhận là hoàn thành kế hoạch.
Những sản phẩm của kế hoạch sản
xuất phụ khi tiêu thụ xí nghiệp phải nộp thuế theo tỷ lệ quy định. Nếu xí nghiệp
không nộp đủ số thuế đã phát sinh thì cũng không được xác nhận là hoàn thành kế
hoạch.
Nộp thu quốc doanh hoặc thuế được
xác nhận là hoàn thành kế hoạch khi cả ba trường hợp nộp trên đây đều hoàn
thành kế hoạch.
- Khấu hao cơ bản: trong chỉ
tiêu này phải xem xét cả tỷ lệ trích và mức nộp. Xí nghiệp phải trích đúng,
trích đủ theo tỷ lệ khấu hao cơ bản theo chế độ hiện hành: Xí nghiệp phải nộp hết
số khấu hao cơ bản phát sinh trong kỳ kế hoạch sau khi đã trừ các phần được để ở
xí nghiệp hoặc nộp lên cấp trên, đã ghi trong kế hoạch.
Nếu xí nghiệp trích khấu hao
không đúng tỷ lệ quy định và không nộp hết số đã trích thì không được xác nhận
là hoàn thành kế hoạch (kế hoạch khấu hao cơ bản được xác định theo giá trị tài
sản cố định của xí nghiệp phải tính khấu hao thực có trong năm báo cáo).
Chỉ tiêu lợi nhuận và các khoản
nộp ngân sách Nhà nước được xác nhận là hoàn thành kế hoạch khi cả phần lợi nhuận
thực hiện và các phần nộp đều hoàn thành kế hoạch (kể cả các khoản nộp khác có
ghi trong kế hoạch như nộp biến giá tài sản cố định, chênh lệch giá...)
V. TIÊU CHUẨN
CÔNG NHẬN VÀ CÔNG BỐ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
Các xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp
và Liên hiệp các xí nghiệp được công nhận và công bố là hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch Nhà nước phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn
sau đây:
1. Hoàn thành và hoàn thành vượt
mức các chỉ tiêu kế hoạch thuộc phần được Nhà nước cung ứng vật tư chủ yếu;
2. Nộp lợi nhuận phần kế hoạch bổ
sung và kế hoạch sản xuất phụ (nếu có) theo đúng tỷ lệ quy định trong Quyết định
số 146-HĐBT ngày 25-8-1982;
3. Không vi phạm nghiêm trọng
các chính sách, thể lệ, chế độ trong quản lý kinh tế do Nhà nước quy định.
Trong tiêu chuẩn 1, nếu hoàn
thành đủ 9 tiêu chuẩn kế hoạch theo Nghị định số 143-CP ngày 13-5-1980 của Hội
đồng Chính phủ và hoàn thành các tiêu chuẩn 2, 3 thì được công nhận và công bố
là hoàn thành toàn diện và xuất sắc kế hoạch Nhà nước.
Trong tiêu chuẩn 1 nếu trước hết
chỉ hoàn thành 3 chỉ tiêu sau đây và hoàn thành các tiêu chuẩn 2, 3 thì cũng được
công nhận là hoàn thành kế hoạch Nhà nước.
1. Giá trị sản lượng hàng hoá thực
hiện, trong đó giá trị sản lượng hàng hoá xuất khẩu.
2. Sản lượng sản phẩm chủ yếu
theo chỉ tiêu chất lượng quy định, trong đó sản phẩm xuất khẩu.
3. Lợi nhuận và các khoản nộp
ngân sách Nhà nước.
Những đơn vị trên đây đều được
trích thưởng với mức cao nhất theo Quyết định số 146-HĐBT ngày 25-8-1982 của Hội
đồng Bộ trưởng. Những đơn vị nào không hoàn thành một ba tiêu chuẩn trên đây
thì không được công nhận là đơn vị hoàn thành kế hoạch Nhà nước.
VI. QUI ĐỊNH
ÁP DỤNG
Thông tư này áp dụng cho kỳ xét
duyệt hoàn thành kế hoạch năm 1982 và cho đến khi có thông tư mới thay thế.
Những vấn đề đã quy định trước
đây mà thông tư này không quy định lại thì vẫn áp dụng như cũ.
Khi tiến hành việc kiểm tra xét
duyệt kế hoạch cho các xí nghiệp, xí nghiệp Liên hợp, Liên hiệp các xí nghiệp
thuộc Trung ương và địa phương quản lý, các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân thành
phố, tỉnh cần thông báo cho cơ quan kế hoạch, thống kê, tài chính cùng cấp biết
để tham gia.