Quyết định 101-TC/ĐT năm 1987 ban hành chế độ quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Bộ trưởng Bộ Tài chính
Số hiệu | 101-TC/ĐT |
Ngày ban hành | 20/03/1987 |
Ngày có hiệu lực | 01/04/1987 |
Loại văn bản | Quyết định |
Cơ quan ban hành | Bộ Tài chính |
Người ký | Hồ Tế |
Lĩnh vực | Xây dựng - Đô thị |
BỘ
TÀI CHÍNH |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 101-TC/ĐT |
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 1987 |
BAN HÀNH CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Căn cứ Quyết định số 90-CT ngày 18-4-1978 của Hội đồng Chính phủ và Nghị định số
132-HĐBT ngày 13-8-1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi tổ chức bộ máy của
Bộ Tài chính;
Căn cứ Nghị định số 232-CP ngày 6-6-1981 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ
quản lý xây dựng cơ bản.
Căn cứ Quyết định số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy
định tạm thời về quyền tự chủ Tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở và giao
nhiệm vụ cho Bộ Tài chính ban hành chế độ quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản;
và cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa quản lý Nhà nước của Ngân hàng để bảo đảm
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở,
|
Hồ Tế (Đã ký) |
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
(Ban hành kèm theo Quyết định số 01-TC ngày 20-3-1987 của Bộ Tài chính)
Điều 1. Chế độ quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhằm mở rộng và đảm bảo quyền tự chủ, chủ động về nguồn vốn, sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các đơn vị kinh tế cơ sở; thực hiện đầy đủ chức năng của tài chính trong việc cấp phát vốn và tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng đầu tư và xây dựng trong quá trình cấp vốn và thanh toán (thay cơ quan tài chính) hoặc cho vay thanh toán đối với chủ đầu tư. Các chủ đầu tư được ngân sách cấp phát, Ngân hàng cho vay vốn hoặc sử dụng nguồn vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản có trách nhiệm quản lý và sử dụng vốn đúng mục đích, đúng kế hoạch được duyệt và bảo đảm hiệu quả kinh tế cao.
- Đối với công trình thuộc ngân sách đầu tư, cơ quan tài chính thông báo kế hoạch cấp phát vốn cho cơ quan chủ quản để thông báo cho chủ đầu tư đối với từng công trình; đồng thời căn cứ vào tiến độ thực hiện kế hoạch để cấp phát vốn cho chủ đầu tư thông quan Ngân hàng đầu tư và xây dựng; Ngân hàng đầu tư và xây dựng thay mặt cơ quan tài chính cấp vốn thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành cho đơn vị.
- Đối với công trình tín dụng đầu tư, Ngân hàng đầu tư và xây dựng thông báo kế hoạch cho vay vốn cho cơ quan chủ quản để thông báo cho chủ đầu tư; đồng thời căn cứ vào tiến độ thực hiện kế hoạch để cho vay thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành.
- Đối với công trình đầu từ bằng vốn tự có, Ngân hàng đầu tư và xây dựng căn cứ vào kế hoạch đơn vị được duyệt để cấp vốn thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành theo tiến độ thực hiện kế hoạch, đúng với chế độ quy định của Nhà nước, theo yêu cầu của thủ trưởng đơn vị.
Ngân hàng đầu tư và xây dựng thực hiện việc cấp phát, cho vay và thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành được đầy đủ, kịp thời, thuận tiện, đúng chế độ, theo kế hoạch cấp phát vốn đầu tư của Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc cho vay vốn của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời chịu trách nhiệm với cơ quan tài chính, chủ đầu tư (đối với công trình thuộc diện đầu tư bằng vốn tự có) về việc cấp phát, cho vay và thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và quyết toán vốn với cơ quan tài chính.
BỘ
TÀI CHÍNH |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 101-TC/ĐT |
Hà Nội, ngày 20 tháng 3 năm 1987 |
BAN HÀNH CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Căn cứ Quyết định số 90-CT ngày 18-4-1978 của Hội đồng Chính phủ và Nghị định số
132-HĐBT ngày 13-8-1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc sửa đổi tổ chức bộ máy của
Bộ Tài chính;
Căn cứ Nghị định số 232-CP ngày 6-6-1981 của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ
quản lý xây dựng cơ bản.
Căn cứ Quyết định số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy
định tạm thời về quyền tự chủ Tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở và giao
nhiệm vụ cho Bộ Tài chính ban hành chế độ quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản;
và cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa quản lý Nhà nước của Ngân hàng để bảo đảm
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở,
|
Hồ Tế (Đã ký) |
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
(Ban hành kèm theo Quyết định số 01-TC ngày 20-3-1987 của Bộ Tài chính)
Điều 1. Chế độ quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhằm mở rộng và đảm bảo quyền tự chủ, chủ động về nguồn vốn, sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các đơn vị kinh tế cơ sở; thực hiện đầy đủ chức năng của tài chính trong việc cấp phát vốn và tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng đầu tư và xây dựng trong quá trình cấp vốn và thanh toán (thay cơ quan tài chính) hoặc cho vay thanh toán đối với chủ đầu tư. Các chủ đầu tư được ngân sách cấp phát, Ngân hàng cho vay vốn hoặc sử dụng nguồn vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản có trách nhiệm quản lý và sử dụng vốn đúng mục đích, đúng kế hoạch được duyệt và bảo đảm hiệu quả kinh tế cao.
- Đối với công trình thuộc ngân sách đầu tư, cơ quan tài chính thông báo kế hoạch cấp phát vốn cho cơ quan chủ quản để thông báo cho chủ đầu tư đối với từng công trình; đồng thời căn cứ vào tiến độ thực hiện kế hoạch để cấp phát vốn cho chủ đầu tư thông quan Ngân hàng đầu tư và xây dựng; Ngân hàng đầu tư và xây dựng thay mặt cơ quan tài chính cấp vốn thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành cho đơn vị.
- Đối với công trình tín dụng đầu tư, Ngân hàng đầu tư và xây dựng thông báo kế hoạch cho vay vốn cho cơ quan chủ quản để thông báo cho chủ đầu tư; đồng thời căn cứ vào tiến độ thực hiện kế hoạch để cho vay thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành.
- Đối với công trình đầu từ bằng vốn tự có, Ngân hàng đầu tư và xây dựng căn cứ vào kế hoạch đơn vị được duyệt để cấp vốn thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành theo tiến độ thực hiện kế hoạch, đúng với chế độ quy định của Nhà nước, theo yêu cầu của thủ trưởng đơn vị.
Ngân hàng đầu tư và xây dựng thực hiện việc cấp phát, cho vay và thanh toán sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành được đầy đủ, kịp thời, thuận tiện, đúng chế độ, theo kế hoạch cấp phát vốn đầu tư của Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc cho vay vốn của Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời chịu trách nhiệm với cơ quan tài chính, chủ đầu tư (đối với công trình thuộc diện đầu tư bằng vốn tự có) về việc cấp phát, cho vay và thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản và quyết toán vốn với cơ quan tài chính.
- Các công trình thiết bị toàn bộ do Chính phủ vay nợ và nhận viện trợ của nước ngoài;
- Các công trình sản xuất, kinh doanh được xây dựng mới có thời gian thu lãi đủ hoàn vốn từ 8 năm trở lên;
- Các công trình sản xuất, kinh doanh (được xây dựng mở rộng, cải tạo, khôi phục) có thời gian thu lãi đủ hoàn vốn từ 8 năm trở lên của các đơn vị kinh tế cơ sở đang hoạt động;
- Các công trình kinh tế kết hợp với quốc phòng;
- Các công trình đầu tư xây dựng mới thuộc kết cấu hạ tầng;
- Các công trình (không có tính chất sản xuất, kinh doanh) đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo của các cơ quan hành chính, sự nghiệp;
- Các công trình phúc lợi phục vụ công cộng;
- Các công trình nhà ở được xây dựng mới cho các khu dân cư.
- Các công trình sản xuất, kinh doanh đầu tư xây dựng, mở rộng, cải tạo, khôi phục có thời gian thu lãi đủ hoàn vốn dưới 8 năm và các công trình nhà ở, phúc lợi của các đơn vị kinh tế cơ sở đang hoạt động.
Để đầu tư xây dựng các công trình nói trên, trước hết phải động viên tối đa nguồn vốn tự có về đầu tư xây dựng cơ bản của đơn vị để bảo đảm trường hợp nguồn vốn tự có không đủ thì được Ngân hàng đầu tư vào xây dựng cho vay bổ sung.
- Các công trình sản xuất, kinh doanh được xây dựng mới có thời gian thu lãi đủ hoàn vốn dưới 8 năm.
- Các công trình thuộc diện đầu tư bằng nguồn vốn tự có, nhưng nguồn vốn tự có của đơn vị không đáp ứng đủ.
- Các Bộ, Uỷ ban Nhà nước, cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng lập kế hoạch cấp phát vốn chuẩn bị đầu tư cho từng công trình do đơn vị mình quản lý và gửi cho Bộ Tài chính.
- Các sở chủ quản, Uỷ ban Nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh lập kế hoạch cấp phát vốn chuẩn bị đầu tư cho từng công trình do đơn vị mình quản lý và gửi cho Sở Tài chính.
Riêng các công trình chuẩn bị đầu tư do địa phương quản lý nhưng thuộc nguồn tập trung do Ngân sách Trung ương bảo đảm thì Sở Tài chính các tỉnh, thành phố đặc khu có trách nhiệm tổng hợp kế hoạch cấp phát vốn chuẩn bị đầu tư gửi Bộ Tài chính để làm căn cứ bố trí kế hoạch cấp phát vốn đầu tư tập trung của ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương.
Ngân hàng đầu tư và xây dựng có trách nhiệm thay mặt cơ quan Tài chính cấp vốn thanh toán khối lượng công việc chuẩn bị đầu tư cho các chủ đầu tư kịp thời theo từng khoản mục chi phí chuẩn bị đầu tư theo đúng chế độ Nhà nước quy định và theo đúng tiến độ hoàn thành các công việc chuẩn bị đầu tư, trong phạm vi kế hoạch cấp phát vốn chuẩn bị đầu tư của từng công trình đã được Bộ tài chính thông báo.
Khi luận chứng kinh tế - kỹ thuật được duyệt và công trình được ghi vào kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản thì số vốn chuẩn bị đầu tư dã được cấp phát sẽ được xử lý như sau: Nếu công trình thuộc diện Ngân sách đầu tư thì số vốn cấp phát được tính chuyển vào giá trị công trình; Nếu công trình thuộc diện tín dụng đầu tư thì đầu tư được Ngân hàng đầu tư và xây dựng cho vay để nộp hoàn trả ngân sách Nhà nước.
Trường hợp luận chứng kinh tế - kỹ thuật của công trình không được phê duyệt thì cơ quan chủ quản báo cáo Nhà nước để xin duyệt bỏ số vốn đã cấp phát cho công tác chuẩn bị đầu tư.
Số vốn được ngân sách cấp phát hoặc Ngân hàng cho vay tính cho mỗi lần nhận hàng theo số lượng và giá mua ghi trên phiếu báo giá.
- Giá trị sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành (bao gồm xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác) trong kế hoạch tính đến cuối năm báo cáo chưa được ngân sách cấp phát hoặc Ngân hàng cho vay vốn đầu tư.
- Giá trị sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành (bao gồm xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác) trong năm kế hoạch đủ tiêu chuẩn để ngân sách cấp phát hoặc Ngân hàng cho vay vốn đầu tư.
- Giá trị sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành (bao gồm xây lắp, thiết bị, kiến thiết cơ bản khác) của năm kế hoạch nhưng phải chuyển sang năm sau để ngân sách cấp phát hoặc Ngân hàng cho vay vốn đầu tư.
- Tổng số vốn để ngân sách cấp phát hoặc Ngân hàng cho vay vốn đầu tư trong năm kế hoạch, được phân chia theo các tháng phù hợp với từng thời điểm có sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành thanh toán.
- Tổng mức vốn đầu tư được duyệt và tổng tiến độ thực hiện đầu tư của từng công trình, hạng mục công trình.
- Kết quả đầu tư được tích luỹ kể từ khởi công đến cuối năm báo cáo của từng công trình hoặc hạng mục công trình.
- Kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản được duyệt, các mục tiêu phải hoàn thành trong năm kế hoạch.
- Các hợp đồng mua sắm máy móc, thiết bị (bao gồm thiết bị nhập khẩu và sản xuất trong nước); dự kiến máy móc thiết bị nhận về trong năm kế hoạch theo các hợp đồng đã ký kết.
1. Đối với các công trình do các Bộ, Uỷ ban Nhà nước và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng (sau đây gọi tắt là các Bộ) quản lý.
- Bộ Tài chính cân đối, tổng hợp, duyệt và thông báo kế hoạch cấp phát vốn đầu tư (đối với công trình do ngân sách đầu tư) cho Bộ chủ quản theo từng công trình (theo biểu số 6-TB/KHĐT), đồng thời căn cứ vào kế hoạch đã thông báo nói trên thực hiện việc cấp vốn đầu tư theo kế hoạch cấp phát vốn đầu tư của từng công trình qua Ngân hàng đầu tư và xây dựng cấp vốn thanh toán theo kế hoạch cấp phát của Bộ Tài chính theo chế độ quy định thống nhất của Nhà nước.
- Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam xem xét, tổng hợp, duyệt và thông báo kế hoạch cho vay vốn đầu tư (đối với công trình tín dụng đầu tư) cho Bộ chủ quản theo từng công trình.
2. Đối với công trình do các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương quản lý (sau đây gọi chung là các tỉnh).
- Uỷ ban Nhân dân thành phố, quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là huyện) nếu công trình đó do huyện quản lý.
- Các Sở chủ quản nếu công trình đó do Sở quản lý.
- Ngân hàng nơi chủ đầu tư mở tài khoản.
- Sở Tài chính có trách nhiệm xem xét, tổng hợp kế hoạch ngân sách cấp phát vốn đầu tư các công trình do tỉnh quản lý (theo biểu số 3A-KH/ĐT và 3B-BC/ĐT) trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh để gửi cho Bộ Tài chính.
- Ngân hàng đầu tư và xây dựng tỉnh có trách nhiệm xem xét, tổng hợp kế hoạch cho vay vốn đầu tư (các công trình thuộc diện tín dụng đầu tư do tỉnh quản lý (theo biểu số 3A-KH/ĐT và 3B-BC/ĐT) trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh để gửi Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam theo hướng dẫn của Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam.
- Sở Tài chính thông báo kế hoạch cấp phát vốn đầu tư (đối với công trình ngân sách đầu tư) cho các Sở chủ quản và Uỷ ban Nhân dân các huyện.
- Ngân hàng đầu tư và xây dựng tỉnh thông báo kế hoạch cho vay vốn đầu tư (đối với công trình tín dụng đầu tư) cho các Sở chủ quản và Uỷ ban Nhân dân các huyện.
Các Sở chủ quản, Uỷ ban Nhân dân các huyện làm việc với Sở Tài chính tỉnh, các Bộ làm việc với các Bộ Tài chính để kịp thời điều chỉnh kế hoạch cấp vốn sang Ngân hàng đầu tư và xây dựng đồng cấp giữa các lần trong năm.
Số vốn của mỗi lần chuyển bằng tổng giá trị sản phẩm xây dựng cơ bản hoàn thành trong từng thời kỳ đó.
- Trường hợp Ngân hàng đầu tư và xây dựng đã huy động tối đa các nguồn vốn (như đã nêu trong điều 7) mà vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng đầu tư của các công trình trong kế hoạch được duyệt theo chế độ Nhà nước quy định, thì phần còn thiếu được Bộ Tài chính cân đối vào Ngân sách Trung ương và cấp vốn cho Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam để bổ sung nguồn vốn tín dụng đầu tư.
- Trường hợp các nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng đầu tư và xây dựng huy động được nhiều hơn nhu cầu cho vay vốn đầu tư, thì Ngân hàng đầu tư và xây dựng phải nộp lại Ngân sách Trung ương phần chênh lệch thừa.
Việc phân định sản phẩm thiết bị được cấp phát vốn đầu tư thực hiện như quy định trong các điều (23, 24, 25) của chế độ này.
Số vốn đã cấp phát ứng trước cho từng lần nhận hàng (vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu) về kèm theo thiết bị nhập nói trên sẽ khấu trừ dần vào từng lần cấp phát vốn thanh toán sản phẩm xây lắp hoàn thành.
Số tiền phải khấu trừ trong mỗi lần cấp phát sản phẩm xây lắp hoàn thành sẽ do Ngân hàng đầu tư xây dựng phối hợp với chủ đầu tư và các tổ chức thi công xây lắp tính toán và xác định bảo đảm số tiền khấu trừ này tương ứng với giá trị vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu nhập ngoại cấu thành trong sản phẩm xây lắp hoàn thành được cấp phát.
Đối với những vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho công tác xây lắp của công trình, chủ đầu tư có trách nhiệm mở sổ theo dõi riêng một cách chính xác và đầy đủ số đã nhận và số giao cho từng tổ chức thi công xây lắp, để làm cơ sở cho việc khấu trừ vào giá trị sản phẩm xây lắp hoàn thành được cấp phát; Ngân hàng đầu tư và xây dựng cơ bản có trách nhiệm kiểm tra và thực hiện việc thay cơ quan tài chính khấu trừ vào số vốn phải cấp phát cho sản phẩm xây lắp hoàn thành theo quy định tại điều 58 của chế độ này.