Nghị quyết về việc cải tiến chế độ lương và tăng lương năm 1960 do Hội đồng Chính phủ ban hành

Số hiệu khôngsố
Ngày ban hành 27/04/1960
Ngày có hiệu lực 12/05/1960
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Hội đồng Chính phủ
Người ký ***
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương

HỘI ĐỒNG CHÍNH CHỦ
*****

 

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******

Hà Nội, ngày 27 tháng 04 năm 1960

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC CẢI TIẾN CHẾ ĐỘ LƯƠNG VÀ TĂNG LƯƠNG NĂM 1960

Trong kỳ họp vào ngày 26 và 27 tháng 04 năm 1960, Hội đồng Chính phủ đã thảo luận về tình hình thực hiện chế độ lương năm 1958 và phương án cải tiến chế độ lương và tăng lương năm 1960.

Hội đồng Chính phủ nhận định rằng lần cải tiến chế độ lương năm 1958 đã thu được kết quả tốt:

- Đã cải thiện một phần đời sống của công nhân, viên chức, cán bộ, góp phần khuyến khích mọi người ra sức đẩy mạnh sản xuất và công tác. Tiền lương bình quân năm 1958 của công nhân, viên chức, cán bộ đã tăng 11,7%. Đi đôi với việc tăng lương, việc lãnh đạo sản xuất, quản lý thị trường, ổn định vật giá làm tương đối tốt, do đó tiền lương thực tế đã tăng thêm. Việc ban hành một số chế độ trợ cấp xã hội, việc xây dựng các sự nghiệp phúc lợi xã hội, thiết bị an toàn lao động đã có tác dụng cải thiện thêm điều kiện sinh hoạt và điều kiện lao động cho công nhân, viên chức, cán bộ ở các xí nghiệp, cơ quan.

- Đã căn bản thống nhất chế độ lương, giảm bớt được tính chất bình quân và những điểm bất hợp lý trong chế độ lương cũ.

- Đã bước đầu kế hoạch hóa được công tác tiền lương: lập quỹ lương riêng, quỹ xã hội riêng, và đặt cơ sở bước đầu cho việc quản lý tiền lương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hạch toán kinh tế.

Tuy vậy, trong chế độ lương năm 1958 còn có những điểm chưa hợp lý:

- Trong khu vực sản xuất, thang lương đặt ra quá nhiều. Quan hệ giữa lương các ngành công nghiệp nặng và lương các ngành công nghiệp nhẹ, cũng như lương giữa các nghề với nhau chưa được hợp lý. Lương của cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý xí nghiệp chưa phản ảnh đúng nguyên tắc phân phối theo lao động; quan hệ giữa lương công nhân và lương cán bộ lãnh đạo trực tiếp cùng một đơn vị chưa được tốt.

- Trong khu vực hành chính, việc dựa vào tiêu chuẩn đức, tài, lịch sử công tác để sắp xếp cán bộ vào một thang lương có nhiều bậc, đưa đến kết quả là nhiều cấp bậc lương chưa được thỏa đáng đối với chức vụ, trách nhiệm và khả năng công tác của cán bộ, nhân viên. Chế độ lương như vậy chưa phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động.

- Lương của một số cán bộ kỹ thuật, khoa học có tài năng tuy có được chú ý nâng lên, nhưng vẫn chưa được thích đáng; trái lại lương của nhân viên kỹ thuật mới ra trường thì có phần cao không hợp lý so với lương của các loại nhân viên, cán bộ chính trị, nghiệp vụ khác.

- Các chế độ bảo hiểm xã hội và phúc lợi nghiên cứu chậm, ban hành không kịp thời, đã hạn chế một phần việc cải thiện toàn diện đời sống của công nhân, viên chức, cán bộ.

Tình hình kinh tế nước ta căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp; công nghiệp còn nhỏ bé. Trong nhân dân, nông dân chiếm đại bộ phận; số người thiếu việc làm còn nhiều. Nông nghiệp là nguồn cung cấp chủ yếu về hàng hóa, thực phẩm, nguyên liệu cho thủ công nghiệp và công nghiệp, song sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu và thấp kém. Trong thời gian vừa qua, năng suất lao động công nghiệp và nông nghiệp có tăng nhưng vẫn còn chậm và thấp. Giải quyết vấn đề tiền lương của công nhân, viên chức, cán bộ nhất định không thể tách rời khỏi tình hình cơ bản nói trên, tiền lương không thể tăng nhanh, tăng nhiều được mà phải theo phưong châm "cải thiện đời sống của nhân dân trên cơ sở phát triển sản xuất và nâng cao năng suất lao động xã hội".

Tiền lương là một vấn đề có quan hệ đến chính sách công nông liên minh, đến vấn đề đoàn kết giữa công nhân, viên chức, cán bộ và bộ đội. Việc tăng lương có quan hệ mật thiết đến mọi mặt hoạt động kinh tế trong xã hội: sản xuất, hàng hóa, vật giá, tài chính, tiền tệ. Việc tăng lương phải giữ được quan hệ tốt giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa sản xuất và sinh hoạt.

Hai năm qua, chúng ta đã thu được những thắng lợi lớn về sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, nhưng nền kinh tế của ta vẫn còn lạc hậu, năng suất lao động còn thấp, đời sống của các tầng lớp nhân dân chưa được cải thiện nhiều.

Miền Bắc nước ta đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi chúng ta phải tiến nhanh, tiến mạnh. Công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tích lũy vốn để có thể mở mang xây dựng cơ bản, phát triển sản xuất các tư liệu sản xuất, thực hiện tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở vật chất để nâng cao không ngừng đời sống của nhân dân. Chúng ta phải có ý thức đầy đủ đối với vấn đề tích lũy vốn để nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời coi trọng đúng mức việc cải thiện đời sống của nhân dân. Đi đôi với việc chăm lo cải thiện đời sống của công nhân, viên chức và cán bộ, cần phải rất chú ý động viên tinh thần hăng hái cách mạng của mọi người, ra sức thi đua sản xuất và công tác, nâng cao năng suất lao động, đồng thời tiết kiệm tiêu dùng, phát huy truyền thống cần cù giản dị của nhân dân ta, khắc phục mọi khó khăn để xây dựng Tổ quốc.

"Phân phối theo lao động" là một sự tất yếu khách quan do phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa quyết định. Đó là một quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và là nguyên tắc cơ bản của tiền lương dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Muốn quy định tiền lương một cách đúng đắn, làm cho chế độ lương phát huy được tác dụng tích cực đối với việc khuyến khích sản xuất, nâng cao năng suất lao động và đối với việc phân phối, sắp xếp lao động một cách có kế hoạch giữa các ngành kinh tế quốc dân, chúng ta phải nắm vững nguyên tắc phân phối theo lao động. Chế độ lương qua mỗi lần cải tiến phải quán triệt thêm một bước nguyên tắc đó, dần dần tiến lên thực hiện triệt để nguyên tắc đó. Nhưng khi vận dụng quy luật phân phối theo lao động, chúng ta không thể tách rời hoàn cảnh thực tế mọi mặt của nước ta. Phải phân tích một cách toàn diện quan hệ giữa nông thôn và thành thị, giữa mức sống của công nhân và nông dân, giữa tiền lương và phúc lợi, giữa tình hình trước mắt và tình hình sắp tới; phải chú ý đầy đủ đến tình hình sản xuất và trình độ công nhân, tình hình tổ chức và cán bộ của ta. Tóm lại, phải chiếu cố toàn diện, cân nhắc kỹ lưỡng giữa yêu cầu và khả năng, kết hợp nguyên tắc với thực tế để vận dụng một cách đúng đắn nguyên tắc phân phối theo lao động vào tình hình thực tế nước ta. 

Mặt khác, cũng cần nhận rõ: trong hoàn cảnh khả năng tăng lương có hạn, lại phải đảm bảo vừa cải tiến chế độ lương vừa tăng lương, tính chất bình quân trong lương vẫn còn, chúng ta chưa thể thực hiện đầy đủ ngay một lúc nguyên tắc phân phối theo lao động. Vì vậy, trong công tác tiền lương hiện nay, cần phải chống chủ nghĩa bình quân, đồng thời phải chống xu hướng đòi công bằng hợp lý một cách tuyệt đối, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của ta.

Việc cải thiện đời sống của công nhân, viên chức, cán bộ cũng phải được nhận thức một cách toàn diện, và đặt trong vấn đề cải thiện đời sống chung của nhân dân trong đó có gia đình công nhân, viên chức, cán bộ. Yêu cầu trước mắt là phải có việc cho nhiều người là thì mới có điều kiện tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân. Vì vậy, khi xác định mức lương cho công nhân, viên chức Nhà nước, chúng ta cũng không thể thoát ly mức sống chung trong xã hội.

Việc cải thiện đời sống của công nhân, viên chức, cán bộ cũng không phải chỉ là vấn đề tiền lương; còn cần phải coi trọng và giải quyết tốt các vấn đề phúc lợi xã hội nữa. Công tác phúc lợi xã hội trong các xí nghiệp, cơ quan làm được tốt sẽ có tác dụng thiết thực cải thiện đời sống hàng ngày và điều kiện lao động của công nhân, viên chức, cán bộ. Cần phải chú trọng đúng mức đến phụ nữ và trẻ em. Phải tùy hoàn cảnh và khả năng thực tế của ta mà giải quyết dần dần, nhằm vào những nhu cầu thiết yếu trước mắt của quần chúng, không chạy theo hình thức, thoát ly mức sống chung của nhân dân. Phải khéo sắp xếp, dùng ít tiền mà làm được nhiều việc, kết hợp việc Nhà nước đài thọ và sự đóng góp của quần chúng.

Tóm lại, phải nhìn một cách toàn diện hoàn cảnh kinh tế, chính trị và xã hội của nước ta, phải căn cứ tình hình thực tế của miền Bắc hiện nay, vận dụng đúng đắn nguyên tắc phân phối theo lao động mà tiến hành cải tiến chế độ lương và phúc lợi xã hội cho thích hợp.

Xuất phát từ những nhận định trên và căn cứ vào chỉ tiêu tiền lương trong kế hoạch Nhà nước 3 năm (1958-1960), Hội đồng Chính phủ.

QUYẾT NGHỊ:

A. Nhiệm vụ công tác tiền lương năm 1960 là:

1. Tiếp tục cải tiến chế độ lương và tăng lương, nhằm quán triệt thêm một bước nguyên tắc phân phối theo lao động.

2. Đi đôi với việc cải tiến chế độ lương cần cải tiến và ban hành các chính sách cụ thể và bảo hiểm xã hội và phúc lợi cho công nhân, viên chức và quân đội.

Thực hiện hai nhiệm vụ trên nhằm đạt những yêu cầu sau đây:

a) Cải thiện thêm một bước đời sống công nhân, viên chức, cán bộ, động viên mọi người phấn khởi sản xuất và công tác, phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1960 và kế hoạch 3 năm.

[...]