Nghị quyết 25/2012/NQ-HĐND đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân do tỉnh Trà Vinh ban hành

Số hiệu 25/2012/NQ-HĐND
Ngày ban hành 08/12/2012
Ngày có hiệu lực 19/12/2012
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Trà Vinh
Người ký Dương Hoàng Nghĩa
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH TRÀ VINH
---------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 25/2012/NQ-HĐND

Trà Vinh, ngày 08 tháng 12 năm 2012

VỀ MỘT SỐ ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26/11/2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ngày 03/12/2004;

Xét Tờ trình số: 08/TTr-HĐND ngày 04/12/2012 của Thường trực HĐND tỉnh Trà Vinh về Đề án đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và ý kiến của đại biểu HĐND tỉnh,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Triển khai thực hiện một số đổi mới trong các hoạt động sau đây của Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh:

1. Tổ chức kỳ họp HĐND;

2. Chất vấn và trả lời chất vấn;

3. Hoạt động giám sát;

4. Hoạt động tiếp xúc cử tri;

5. Công tác tiếp công dân;

6. Công tác đảm bảo cho hoạt động của HĐND.

Điều 2. Nội dung đổi mới cụ thể (có Đề án kèm theo), với một số đổi mới chủ yếu như sau:

1. Tổ chức kỳ họp Hội đồng nhân dân

a) Thực hiện việc cải tiến cách thức tổ chức kỳ họp Hội đồng nhân dân, tập trung nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị nội dung, chương trình, các báo cáo, tờ trình, dự thảo Nghị quyết trình Hội đồng nhân dân; tăng cường hoạt động giữa 2 kỳ họp của đại biểu Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân. Thường trực và các Ban Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan, tổ chức hữu quan phải thực hiện tốt công tác chuẩn bị kỳ họp, tập trung cho việc xác định nội dung, chương trình, xây dựng các báo cáo, tờ trình, dự thảo nghị quyết trình kỳ họp đảm bảo chất lượng, chặt chẽ, khả thi, đúng quy trình, thủ tục và nhất là phải đúng thời gian luật định (chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, các dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trình Hội đồng nhân dân tại kỳ họp phải được gửi tới Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân); trường hợp gởi chậm sẽ không đưa vào chương trình nghị sự của kỳ họp HĐND tỉnh.

Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các Sở ngành, các cơ quan tham mưu làm tốt công tác chuẩn bị các nội dung trình kỳ họp đã được phân công, đảm bảo chặt chẽ, đúng trình tự thủ tục luật định.

b) Chuẩn bị chương trình kỳ họp Hội đồng nhân dân theo hướng chủ động, tích cực. Chỉ đưa vào chương trình kỳ họp để Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định những vấn đề đã được chuẩn bị chu đáo về nội dung, bảo đảm đúng thời hạn, thẩm quyền, quy trình, thủ tục luật định; không đưa vào chương trình kỳ họp những nội dung chưa đạt yêu cầu, chuẩn bị chưa chu đáo và gởi đến Thường trực Hội đồng nhân dân chậm so với thời gian luật định; hạn chế tối đa việc xin ý kiến Hội đồng nhân dân những sự vụ, sự việc nhất là vấn đề điều chỉnh, bổ sung ngân sách, trừ những vấn đề bức xúc, cấp thiết; Thường trực Hội đồng nhân dân không đưa quá nhiều nội dung vào một kỳ họp (một kỳ họp trình Hội đồng nhân dân thông qua không quá 20 tờ trình).

Các Tổ đại biểu và đại biểu Hội đồng nhân dân căn cứ vào các Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chương trình xây dựng nghị quyết, chương trình giám sát hàng năm của Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân và dự kiến chương trình các kỳ họp Hội đồng nhân dân để xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp, sát với yêu cầu thực tế của địa phương. Trước kỳ họp các Tổ đại biểu phải họp Tổ để nghiên cứu tài liệu, phân công việc chuẩn bị ý kiến phát biểu và ý kiến chất vấn đạt chất lượng; từng đại biểu tích cực nghiên cứu tài liệu, chủ động thu thập thông tin trước khi họp Tổ, chuẩn bị ý kiến đối với những vấn đề mình am hiểu, quan tâm và theo sự phân công của Tổ.

c) Bố trí thời gian làm việc của kỳ họp khoa học, hợp lý, phù hợp với khối lượng công việc kỳ họp phải thông qua, dành thời gian thỏa đáng cho việc thảo luận, chất vấn - trả lời chất vấn và giải trình các kiến nghị của cử tri; trong các kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân nhất thiết phải dành thời gian và bố trí việc thảo luận ở tổ để việc xem xét, quyết định các vấn đề thuộc nội dung kỳ họp đạt chất lượng cao hơn. Xem xét, thảo luận các báo cáo về kinh tế - xã hội, các đề án, báo cáo khác tại kỳ họp Hội đồng nhân dân theo hướng trình bày tóm tắt (kể cả báo cáo tổng hợp ý kiến kiến nghị của cử tri), rút ngắn thời gian trình bày văn bản xuống còn khoảng từ 15 đến 20 phút (trừ báo cáo tình hình KT - XH của Ủy ban nhân dân, báo cáo thẩm tra về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước). Thời gian phát biểu của đại biểu tại hội trường lần đầu không quá 10 phút, lần sau không quá 7 phút.

Báo cáo thẩm tra của các Ban cần phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật; cần viết ngắn gọn, tập trung phân tích, đưa ra các kiến nghị về các nội dung được nêu trong báo cáo, tờ trình; nội dung nào không đồng ý hoặc đề nghị bổ sung thì nêu cơ sở, lập luận, lý lẽ cụ thể; đồng thời nêu rõ những vấn đề quan trọng, còn ý kiến khác nhau và đề xuất phương án xử lý; báo cáo thẩm tra phải thể hiện chính kiến, có tính phản biện và phải bảo vệ quan điểm của mình đối với những vấn đề không phù hợp với quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân tỉnh cần tạo điều kiện cho các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh tham gia góp ý ngay từ khi xây dựng dự thảo các báo cáo, tờ trình về các nội dung dự kiến sẽ trình thông qua tại kỳ họp và căn cứ chương trình xây dựng nghị quyết hàng năm của HĐND tỉnh, các Ban chủ động đi khảo sát về những nội dung quan trọng, bức xúc mà mình quan tâm, làm cơ sở để thẩm tra các tờ trình của Ủy ban nhân dân tỉnh.

d) Xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân theo hướng: trước kỳ họp, Thường trực Hội đồng nhân dân phối hợp với Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức hữu quan dự kiến các nội dung trình Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết và cơ quan chủ trì xây dựng dự thảo nghị quyết. Đối với các nội dung về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, quốc phòng an ninh, công trình, dự án quan trọng,..., cơ quan trình phải dự thảo nghị quyết cùng với dự án, đề án, báo cáo, tờ trình, đặc biệt là phải đảm bảo đúng pháp luật và trình tự thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đối với các tờ trình xét thấy không khả thi, thiếu cơ sở pháp lý sẽ không trình ra Hội đồng nhân dân.

2. Chất vấn và trả lời chất vấn

a) Chất vấn tại kỳ họp: Thường trực Hội đồng nhân dân gởi phiếu chất vấn cho đại biểu cùng với giấy triệu tập kỳ họp; bố trí phiên chất vấn vào cuối kỳ họp để đại biểu Hội đồng nhân dân có thời gian chuẩn bị câu hỏi chất vấn. Các vị đại biểu Hội đồng nhân dân cần chủ động, tích cực thực hiện quyền chất vấn của mình trong phiên chất vấn và trở thành quy định trách nhiệm của mỗi Tổ đại biểu phải có ít nhất có 3 nội dung chất vấn tại mỗi kỳ họp; chất vấn được thực hiện bằng phiếu hoặc chất vấn trực tiếp qua đối thoại; đại biểu Hội đồng nhân dân cần đầu tư nghiên cứu, thu thập đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề mà mình chất vấn để ý kiến chất vấn có chất lượng và mang tính thuyết phục hơn; câu hỏi chất vấn phải ngắn gọn, rõ ý, đúng trọng tâm, không giải thích dài hoặc chỉ hỏi để biết thông tin, tập trung vào các thông tin quan trọng như: trách nhiệm thuộc về ai, giải pháp sắp tới là gì, thời gian nào thực hiện xong,... Thường trực Hội đồng nhân dân lựa chọn một số vấn đề bức xúc, nổi cộm mà dư luận xã hội, cử tri và đại biểu Hội đồng nhân dân quan tâm (đã được đại biểu gởi phiếu chất vấn), dự kiến danh sách những người trả lời chất vấn kết hợp với giải trình ý kiến kiến nghị của cử tri gửi xin ý kiến các vị đại biểu Hội đồng nhân dân và thông báo trước để đại biểu có thời gian chuẩn bị câu hỏi trực tiếp đối với người trả lời chất vấn.

b) Trả lời chất vấn tại kỳ họp: Tại phiên chất vấn, người trả lời chất vấn trả lời ngắn gọn, trực tiếp vào nội dung trọng tâm câu hỏi, tránh giải thích không đi vào nội dung, thời gian trả lời theo yêu cầu của chủ tọa. Sau khi người trả lời chất vấn trả lời xong câu hỏi chất vấn, các đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền đặt câu hỏi trực tiếp với người trả lời chất vấn theo hướng đối thoại, tranh luận làm rõ từng vấn đề được chất vấn; những vấn đề nào chưa trả lời tại kỳ họp được thì Chủ tọa yêu cầu cơ quan, cá nhân được chất vấn trả lời bằng văn bản cho đại biểu có ý kiến chất vấn.

c) Chất vấn và giải trình tại cuộc họp của Thường trực Hội đồng nhân dân: hàng năm tổ chức ít nhất 2 lần chất vấn và giải trình giữa 2 kỳ họp Hội đồng nhân dân tại cuộc họp của Thường trực Hội đồng nhân dân về những vấn đề Thường trực Hội đồng nhân dân quan tâm. Tổ chức phát trên Đài truyền hình, thông tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về hoạt động chất vấn, giải trình để nhân dân theo dõi.

3. Hoạt động giám sát

a) Hàng năm, Thường trực Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân thông qua Chương trình giám sát tại kỳ họp cuối năm trước để có thời gian, điều kiện triển khai thực hiện. Tổ chức giám sát ít nhất 1 chuyên đề tại mỗi kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân để đại biểu Hội đồng nhân dân phát huy quyền giám sát tại kỳ họp bằng việc đặt những câu hỏi trực tiếp xung quanh chuyên đề giám sát tại kỳ họp. Tăng các hoạt động giám sát chuyên đề của các Ban Hội đồng nhân dân giữa 2 kỳ họp. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, được dư luận xã hội, cử tri và các vị đại biểu Hội đồng nhân dân quan tâm. Tăng cường giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp; việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; việc thực hiện các dự án, công trình XDCB trên địa bàn; việc chi tiêu ngân sách nhà nước,...

b) Căn cứ vào chương trình giám sát hàng năm của Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban và Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động giám sát và mời các đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia hoạt động giám sát tại các địa bàn đại biểu ứng cử. Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo, điều hòa, phối hợp việc tổ chức các hoạt động giám sát của Thường trực và các Ban Hội đồng nhân dân, tránh sự trùng lắp, chồng chéo, bảo đảm trong cùng một thời điểm chỉ có một đoàn giám sát của Hội đồng nhân dân tại một cơ quan, đơn vị, địa phương, cơ sở. Các đoàn giám sát đến làm việc tại cơ quan, đơn vị, địa phương, cơ sở phải gởi sớm chương trình, kế hoạch làm việc, xác định cụ thể nội dung công việc nhằm nâng cao chất lượng giám sát, thành phần đoàn giám sát phải thiết thực, gọn nhẹ, thông hiểu được công việc; báo cáo giám sát phải trung thực, khách quan, có kiến nghị, đề xuất qua giám sát. Đặc biệt là phải theo dõi, đôn đốc hậu giám sát. Các đơn vị được giám sát và các đơn vị có liên quan phải thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của đoàn giám sát, chậm nhất không quá 60 ngày các đơn vị phải có báo cáo trả lời việc thực hiện các kiến nghị của đoàn giám sát, nếu đơn vị không khắc phục theo kiến nghị của Đoàn giám sát thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý và báo cáo với Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất.

4. Hoạt động tiếp xúc cử tri

[...]