VỀ MỘT SỐ ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG,
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
KHÓA VIII - KỲ HỌP THỨ 7
Căn cứ Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26/11/2003;
Căn cứ Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ngày
03/12/2004;
Xét Tờ trình số:
08/TTr-HĐND ngày 04/12/2012 của Thường trực HĐND tỉnh Trà Vinh về Đề án đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và ý kiến của đại biểu HĐND tỉnh,
QUYẾT NGHỊ:
Điều
1. Triển khai thực hiện một số đổi mới
trong các hoạt động sau đây của Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh:
1. Tổ chức kỳ họp
HĐND;
2. Chất vấn và trả lời
chất vấn;
3. Hoạt động giám sát;
4. Hoạt động tiếp xúc
cử tri;
5. Công tác tiếp công
dân;
6. Công tác đảm bảo
cho hoạt động của HĐND.
Điều
2. Nội dung đổi mới cụ thể (có Đề án kèm
theo), với một số đổi mới chủ yếu như sau:
1. Tổ chức kỳ họp Hội
đồng nhân dân
a) Thực hiện việc cải
tiến cách thức tổ chức kỳ họp Hội đồng nhân dân, tập trung nâng cao chất lượng
công tác chuẩn bị nội dung, chương trình, các báo cáo, tờ trình, dự thảo Nghị
quyết trình Hội đồng nhân dân; tăng cường hoạt động giữa 2 kỳ họp của đại biểu
Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân. Thường trực và các
Ban Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan, tổ chức hữu quan phải thực
hiện tốt công tác chuẩn bị kỳ họp, tập trung cho việc xác định nội dung,
chương trình, xây dựng các báo cáo, tờ trình, dự thảo nghị quyết trình kỳ họp đảm
bảo chất lượng, chặt chẽ, khả thi, đúng quy trình, thủ tục và nhất là phải đúng
thời gian luật định (chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, các dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trình Hội đồng nhân
dân tại kỳ họp phải được gửi tới Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân); trường
hợp gởi chậm sẽ không đưa vào chương trình nghị sự của kỳ họp HĐND tỉnh.
Ủy ban nhân dân tỉnh
chỉ đạo các Sở ngành, các cơ quan tham mưu làm tốt công tác chuẩn bị các nội
dung trình kỳ họp đã được phân công, đảm bảo chặt chẽ, đúng trình tự thủ tục luật
định.
b) Chuẩn bị chương
trình kỳ họp Hội đồng nhân dân theo hướng chủ động, tích cực. Chỉ đưa vào
chương trình kỳ họp để Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định những vấn đề đã được
chuẩn bị chu đáo về nội dung, bảo đảm đúng thời hạn, thẩm quyền, quy trình, thủ
tục luật định; không đưa vào chương trình kỳ họp những nội dung chưa đạt yêu cầu,
chuẩn bị chưa chu đáo và gởi đến Thường trực Hội đồng nhân dân chậm so với thời
gian luật định; hạn chế tối đa việc xin ý kiến Hội đồng nhân dân những sự vụ, sự
việc nhất là vấn đề điều chỉnh, bổ sung ngân sách, trừ những vấn đề bức xúc, cấp
thiết; Thường trực Hội đồng nhân dân không đưa quá nhiều nội dung vào một kỳ họp
(một kỳ họp trình Hội đồng nhân dân thông qua không quá 20 tờ trình).
Các Tổ đại biểu và đại
biểu Hội đồng nhân dân căn cứ vào các Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội, chương trình xây dựng nghị quyết, chương trình giám sát hàng năm của
Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân và dự kiến chương
trình các kỳ họp Hội đồng nhân dân để xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp, sát
với yêu cầu thực tế của địa phương. Trước kỳ họp các Tổ đại biểu phải họp Tổ để
nghiên cứu tài liệu, phân công việc chuẩn bị ý kiến phát biểu và ý kiến chất vấn
đạt chất lượng; từng đại biểu tích cực nghiên cứu tài liệu, chủ động thu thập
thông tin trước khi họp Tổ, chuẩn bị ý kiến đối với những vấn đề mình am hiểu,
quan tâm và theo sự phân công của Tổ.
c) Bố trí thời gian
làm việc của kỳ họp khoa học, hợp lý, phù hợp với khối lượng công việc kỳ họp phải
thông qua, dành thời gian thỏa đáng cho việc thảo luận, chất vấn - trả lời chất
vấn và giải trình các kiến nghị của cử tri; trong các kỳ họp thường lệ của Hội
đồng nhân dân nhất thiết phải dành thời gian và bố trí việc thảo luận ở tổ để
việc xem xét, quyết định các vấn đề thuộc nội dung kỳ họp đạt chất lượng cao
hơn. Xem xét, thảo luận các báo cáo về kinh tế - xã hội, các đề án, báo cáo
khác tại kỳ họp Hội đồng nhân dân theo hướng trình bày tóm tắt (kể cả báo cáo tổng
hợp ý kiến kiến nghị của cử tri), rút ngắn thời gian trình bày văn bản
xuống còn khoảng từ 15 đến 20 phút (trừ báo cáo tình hình KT - XH của Ủy ban
nhân dân, báo cáo thẩm tra về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước). Thời
gian phát biểu của đại biểu tại hội trường lần đầu không quá 10 phút, lần sau
không quá 7 phút.
Báo cáo thẩm tra của
các Ban cần phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật; cần viết ngắn gọn,
tập trung phân tích, đưa ra các kiến nghị về các nội dung được nêu trong báo
cáo, tờ trình; nội dung nào không đồng ý hoặc đề nghị bổ sung thì nêu cơ sở, lập
luận, lý lẽ cụ thể; đồng thời nêu rõ những vấn đề quan trọng, còn ý kiến khác
nhau và đề xuất phương án xử lý; báo cáo thẩm tra phải thể hiện chính kiến, có
tính phản biện và phải bảo vệ quan điểm của mình đối với những vấn đề không phù
hợp với quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân tỉnh cần tạo điều kiện cho các
Ban Hội đồng nhân dân tỉnh tham gia góp ý ngay từ khi xây dựng dự thảo các báo
cáo, tờ trình về các nội dung dự kiến sẽ trình thông qua tại kỳ họp và căn cứ
chương trình xây dựng nghị quyết hàng năm của HĐND tỉnh, các Ban chủ động đi khảo
sát về những nội dung quan trọng, bức xúc mà mình quan tâm, làm cơ sở để thẩm
tra các tờ trình của Ủy ban nhân dân tỉnh.
d) Xây dựng nghị quyết
của Hội đồng nhân dân theo hướng: trước kỳ họp, Thường trực Hội đồng nhân dân
phối hợp với Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức hữu quan dự kiến các nội
dung trình Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết và cơ quan chủ trì xây dựng dự
thảo nghị quyết. Đối với các nội dung về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước,
quốc phòng an ninh, công trình, dự án quan trọng,..., cơ quan trình phải dự thảo
nghị quyết cùng với dự án, đề án, báo cáo, tờ trình, đặc biệt là phải đảm bảo
đúng pháp luật và trình tự thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đối với
các tờ trình xét thấy không khả thi, thiếu cơ sở pháp lý sẽ không trình ra Hội
đồng nhân dân.
2. Chất vấn và trả
lời chất vấn
a) Chất vấn tại kỳ họp:
Thường trực Hội đồng nhân dân gởi phiếu chất vấn cho đại biểu cùng với giấy triệu
tập kỳ họp; bố trí phiên chất vấn vào cuối kỳ họp để đại biểu Hội đồng
nhân dân có thời gian chuẩn bị câu hỏi chất vấn. Các vị đại biểu Hội đồng nhân
dân cần chủ động, tích cực thực hiện quyền chất vấn của mình trong phiên chất vấn
và trở thành quy định trách nhiệm của mỗi Tổ đại biểu phải có ít nhất có 3
nội dung chất vấn tại mỗi kỳ họp; chất vấn được thực hiện bằng phiếu hoặc
chất vấn trực tiếp qua đối thoại; đại biểu Hội đồng nhân dân cần đầu tư
nghiên cứu, thu thập đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề mà mình chất vấn để
ý kiến chất vấn có chất lượng và mang tính thuyết phục hơn; câu hỏi chất vấn phải
ngắn gọn, rõ ý, đúng trọng tâm, không giải thích dài hoặc chỉ hỏi để biết
thông tin, tập trung vào các thông tin quan trọng như: trách nhiệm thuộc về ai,
giải pháp sắp tới là gì, thời gian nào thực hiện xong,... Thường trực Hội đồng
nhân dân lựa chọn một số vấn đề bức xúc, nổi cộm mà dư luận xã hội, cử tri và đại
biểu Hội đồng nhân dân quan tâm (đã được đại biểu gởi phiếu chất vấn), dự kiến
danh sách những người trả lời chất vấn kết hợp với giải trình ý kiến kiến nghị
của cử tri gửi xin ý kiến các vị đại biểu Hội đồng nhân dân và thông báo trước
để đại biểu có thời gian chuẩn bị câu hỏi trực tiếp đối với người trả lời chất
vấn.
b) Trả lời chất vấn tại
kỳ họp: Tại phiên chất vấn, người trả lời chất vấn trả lời ngắn gọn, trực
tiếp vào nội dung trọng tâm câu hỏi, tránh giải thích không đi vào nội
dung, thời gian trả lời theo yêu cầu của chủ tọa. Sau khi người trả lời chất vấn
trả lời xong câu hỏi chất vấn, các đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền đặt câu
hỏi trực tiếp với người trả lời chất vấn theo hướng đối thoại, tranh luận làm
rõ từng vấn đề được chất vấn; những vấn đề nào chưa trả lời tại kỳ họp được thì
Chủ tọa yêu cầu cơ quan, cá nhân được chất vấn trả lời bằng văn bản cho đại biểu
có ý kiến chất vấn.
c) Chất vấn và giải
trình tại cuộc họp của Thường trực Hội đồng nhân dân: hàng năm tổ chức ít nhất
2 lần chất vấn và giải trình giữa 2 kỳ họp Hội đồng nhân dân tại cuộc họp của
Thường trực Hội đồng nhân dân về những vấn đề Thường trực Hội đồng nhân dân
quan tâm. Tổ chức phát trên Đài truyền hình, thông tin công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng về hoạt động chất vấn, giải trình để nhân dân
theo dõi.
3. Hoạt động giám
sát
a) Hàng năm, Thường trực
Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân thông qua Chương trình giám sát tại kỳ
họp cuối năm trước để có thời gian, điều kiện triển khai thực hiện. Tổ chức
giám sát ít nhất 1 chuyên đề tại mỗi kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân để
đại biểu Hội đồng nhân dân phát huy quyền giám sát tại kỳ họp bằng việc đặt những
câu hỏi trực tiếp xung quanh chuyên đề giám sát tại kỳ họp. Tăng các hoạt động
giám sát chuyên đề của các Ban Hội đồng nhân dân giữa 2 kỳ họp. Nội dung giám
sát tập trung vào những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, được dư luận xã hội, cử
tri và các vị đại biểu Hội đồng nhân dân quan tâm. Tăng cường giám sát hoạt động
của các cơ quan tư pháp; việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
của công dân; việc thực hiện các dự án, công trình XDCB trên địa bàn; việc chi
tiêu ngân sách nhà nước,...
b) Căn cứ vào chương
trình giám sát hàng năm của Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban và Tổ đại
biểu Hội đồng nhân dân xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động giám sát và mời
các đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia hoạt động giám sát tại các địa bàn đại
biểu ứng cử. Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo, điều hòa, phối hợp việc tổ
chức các hoạt động giám sát của Thường trực và các Ban Hội đồng nhân dân, tránh
sự trùng lắp, chồng chéo, bảo đảm trong cùng một thời điểm chỉ có một đoàn giám
sát của Hội đồng nhân dân tại một cơ quan, đơn vị, địa phương, cơ sở. Các đoàn
giám sát đến làm việc tại cơ quan, đơn vị, địa phương, cơ sở phải gởi sớm
chương trình, kế hoạch làm việc, xác định cụ thể nội dung công việc nhằm nâng
cao chất lượng giám sát, thành phần đoàn giám sát phải thiết thực, gọn nhẹ,
thông hiểu được công việc; báo cáo giám sát phải trung thực, khách quan, có kiến
nghị, đề xuất qua giám sát. Đặc biệt là phải theo dõi, đôn đốc hậu
giám sát. Các đơn vị được giám sát và các đơn vị có liên quan phải thực hiện
nghiêm túc các kiến nghị của đoàn giám sát, chậm nhất không quá 60 ngày các đơn
vị phải có báo cáo trả lời việc thực hiện các kiến nghị của đoàn giám sát, nếu
đơn vị không khắc phục theo kiến nghị của Đoàn giám sát thì báo cáo cấp có thẩm
quyền xem xét, xử lý và báo cáo với Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất.
4. Hoạt động tiếp
xúc cử tri
a) Tổ chức nhiều hoạt
động và hình thức tiếp xúc cử tri phù hợp, bảo đảm để đại biểu Hội
đồng nhân dân tiếp xúc với cử tri ở đơn vị bầu cử, nơi cư trú, nơi công tác; mở
rộng việc đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được tiếp xúc cử tri
luân phiên ở các huyện, các xã không phải nơi mình ứng cử; tiếp xúc cử tri theo
chuyên đề, lĩnh vực, đối tượng, địa bàn mà đại biểu quan tâm. Khi tổ chức tiếp
xúc cử tri, cần kết hợp chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân các cấp với tinh thần
khoa học và phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương để giảm bớt thời gian
cho nhân dân. Nội dung chuẩn bị cho cuộc tiếp xúc cử tri phải thật sự cô đọng
và chất lượng, gắn nội dung tiếp xúc cử tri của đại biểu với việc chuẩn bị kỳ họp
Hội đồng nhân dân; hình thức tiếp xúc cử tri phải chu đáo, nghiêm trang, có khẩu
hiệu, bảng tên đại biểu Hội đồng nhân dân.
b) Thông báo công khai
nội dung, chương trình, lịch tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân
trên phương tiện thông tin đại chúng từ tỉnh đến huyện - thành phố và xã, phường,
thị trấn trước từ 5 đến 7 ngày để nhân dân biết tham dự; tạo điều kiện thuận lợi
để cử tri có thể tham dự các cuộc tiếp xúc cử tri; bảo đảm để đại biểu Hội đồng
nhân dân trực tiếp gặp gỡ với cử tri. Đại diện cơ quan, tổ chức, đơn vị chức
năng của từng cấp có trách nhiệm tham dự để tiếp thu, giải trình, trả lời kiến
nghị của cử tri đối với những vấn đề có liên quan.
c) Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc tỉnh phối hợp chặt chẽ với Thường trực Hội đồng nhân dân và có trách nhiệm
điều hành, tổ chức Tổ thư ký cho các cuộc tiếp xúc cử tri để theo dõi tổng hợp
ý kiến, kiến nghị của cử tri, từ đó phân rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp
trong việc trả lời và thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của cử tri. Trong tổng
hợp ý kiến kiến nghị của cử tri cần sàng lọc kỹ nội dung thuộc thẩm quyền,
trách nhiệm của từng cấp, đưa ra kỳ họp Hội đồng nhân dân để các cấp, các ngành
trả lời và qua đó Mặt trận Tổ quốc thực hiện chất vấn, giám sát.
5. Công tác tiếp
công dân
a) Thực hiện tốt công
tác tiếp công dân theo quy định tại Điều 53 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân và Điều 48 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân ngày 02/4/2005
của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI.
Tích cực tham gia, phối
hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành chức năng thực hiện việc tiếp công
dân định kỳ tại trụ sở tiếp công dân tỉnh theo quy định.
b) Thường trực Hội đồng
nhân dân tỉnh tổ chức việc tiếp công dân định kỳ 1 ngày/tháng và thông báo rộng
rãi lịch tiếp công dân hàng tháng của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh để
nhân dân biết đăng ký tham dự. Khi tổ chức tiếp công dân, tùy theo nội dung và
tính chất của khiếu nại, tố cáo, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh sẽ mời đại
diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Thanh tra tỉnh và các Sở ngành hữu quan cùng
tham dự để nâng cao chất lượng tiếp công dân.
6. Công tác bảo đảm
cho hoạt động của HĐND
a) Công tác báo chí,
tuyên truyền: Phối hợp với Đài Phát thanh Truyền hình Trà Vinh xây dựng chuyên
mục hoạt động của Hội đồng nhân dân mỗi tháng phát 1 lần và gắn với chuyên mục
“nghe người dân nói” của Đài Phát thanh Truyền hình Trà Vinh để thông tin về
các hoạt động của Hội đồng nhân dân; đồng thời phối hợp với Báo Trà Vinh xây dựng
chuyên trang về hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp.
b) Lập kế hoạch trang
bị máy tính (laptop) phục vụ hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân
dân tỉnh để nâng cao chất lượng hoạt động của người đại biểu nhân dân.
c) Kiện toàn bộ máy cơ
quan tham mưu, giúp việc theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả; tăng cường số lượng
và nâng cao chất lượng của đội ngũ chuyên viên, phục vụ có hiệu quả các hoạt động
của Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban và đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều
3. Giao Thường trực
HĐND tỉnh tổ chức triển khai thực hiện; các Ban HĐND, Tổ đại biểu và đại biểu
HĐND tỉnh, UBND tỉnh, UBMTTQ tỉnh, các Sở ban ngành có liên quan theo chức
năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết này.
Nghị
quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh khóa VIII - kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 08/12/2012 và có hiệu lực kể từ ngày 19/12/2012./.
ĐỀ ÁN
ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
A.
PHẦN MỞ ĐẦU
I.
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Trong những năm qua,
trên cơ sở quy định của pháp luật và dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy, việc tổ chức thực hiện
của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, kế thừa
và phát huy kinh nghiệm, thành quả đạt được của các nhiệm kỳ trước, Hội đồng
nhân dân, Thường trực, các Ban và từng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp trong
tỉnh đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình, góp phần quan trọng vào những thành tựu chung của tỉnh. Hội đồng nhân dân
hoạt động ngày càng dân chủ, hiệu lực, hiệu quả hơn. Việc quyết định các vấn đề
quan trọng của địa phương, đặc biệt là về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước,
các công trình, dự án quan trọng trên địa bàn ngày càng được cải tiến và từng
bước đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Công tác giám sát được tăng
cường với sự kết hợp của nhiều phương thức và sự phối hợp chặt chẽ của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân, đảm bảo tính toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tập
trung vào những vấn đề quan trọng, bức xúc được đông đảo quần chúng nhân dân
quan tâm. Công tác tiếp xúc cử tri được tổ chức thường xuyên theo đúng quy định
của pháp luật, hình thức và nội dung có đổi mới với chất lượng, hiệu quả ngày
càng cao. Tổ chức bộ máy được củng cố, kiện toàn, từng bước ổn định, cơ bản đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Phương thức hoạt động từng bước được cải tiến
theo hướng bảo đảm phát huy dân chủ, tăng tính chủ động, phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức hữu quan,... Những thành tựu trên là kết quả của quá trình phát
huy nội lực, đổi mới, sáng tạo và cải tiến trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
Bên cạnh đó, hoạt động
của Hội đồng nhân dân thời gian qua vẫn còn một số hạn chế:
Về tổ chức kỳ họp
và quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương: việc chuẩn bị kỳ họp
đôi lúc còn bị động về thời gian, văn bản, tài liệu phục vụ kỳ họp Ủy ban nhân
dân và các ngành hữu quan gởi đến Thường trực Hội đồng nhân dân còn chậm, ảnh
hưởng đến việc thẩm tra của các Ban và việc gởi tài liệu đến đại biểu Hội đồng
nhân dân trước kỳ họp; một số kỳ họp nội dung quá nhiều làm cho đại biểu bị quá
tải trong nghiên cứu tài liệu; đại biểu tham gia thảo luận và chất vấn còn ít;
một vài cơ quan, đơn vị trả lời chất vấn và giải trình các kiến nghị của cử tri
còn dài dòng, chưa đi thẳng vào trọng tâm, làm mất thời gian và thiếu tính thuyết
phục; việc quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương như phát triển kinh
tế - xã hội, ngân sách, các công trình, dự án quan trọng,... có khi chưa sát hợp,
dẫn đến một số nghị quyết tính khả thi chưa cao.
Về hoạt động giám
sát: một số quy định về hoạt động giám sát
còn thiếu cụ thể hoặc chưa phù hợp, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn
kịp thời, nhất là việc tiếp thu, giải quyết kiến nghị sau giám sát; hoạt động
giám sát tại kỳ họp phần lớn đại biểu ít quan tâm, giám sát giữa hai kỳ họp chủ
yếu do Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân thực hiện, tuy nhiên việc giám
sát có lúc chưa sâu, chưa tập trung vào các vấn đề bức xúc được nhiều cử tri
quan tâm; kết luận giám sát một số vấn đề chưa được khắc phục, hoặc chậm khắc
phục, phản hồi đầy đủ cho Đoàn giám sát, điểm đáng lưu ý là Hội đồng
nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân chưa thực hiện được việc giám
sát đối với các ngành, địa phương về việc trả lời hứa hẹn đối với ý kiến, kiến
nghị của cử tri vấn đề nào xong, vấn đề nào chưa xong, nên hiệu lực, hiệu quả của
giám sát chưa toàn diện.
Về đại biểu Hội đồng
nhân dân: số lượng đại biểu hoạt động
chuyên trách quá ít, chưa đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng nhiều, chất lượng
đòi hỏi ngày càng cao của Hội đồng nhân dân; điều kiện hoạt động của đại biểu
còn nhiều khó khăn, thời gian dành cho việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của các
đại biểu kiêm nhiệm còn ít. Việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân
chưa gắn chặt với ý nguyện chính đáng của dân, mà phổ biến là tiếp xúc với cử
tri là cán bộ cơ sở, cử tri “chuyên nghiệp” nên chưa thấu hiểu hết tâm tư, ý
nguyện của dân.
Về các điều kiện bảo
đảm cho hoạt động của Hội đồng nhân dân:
thông tin phục vụ đại biểu Hội đồng nhân
dân còn thiếu, chưa kịp thời và không được cập nhật thường xuyên; trang thiết bị
phục vụ hoạt động của đại biểu chưa được trang bị theo yêu cầu chung; chưa có
cơ chế sử dụng chuyên gia thẩm định các vấn đề khoa học - công nghệ - môi trường.
Mô hình tổ chức bộ máy giúp việc chưa hợp lý và không thống nhất từ tỉnh đến cơ
sở, nhân lực mỏng, tính chuyên nghiệp chưa cao, nhất là ở cấp huyện và cơ sở; chưa
có cơ chế khuyến khích, thu hút các chuyên gia giỏi, cán bộ có năng lực, kinh
nghiệm về làm việc tại các cơ quan tham mưu, giúp việc Hội đồng nhân dân.
II.
CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh Trà Vinh lần thứ IX đã đặt ra yêu cầu phải “Nâng cao chất lượng
hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp”. Căn cứ Đề án số
144/ĐA-UBTVQH13 ngày 18/5/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Nghị quyết số
27/2012/QH13 ngày 21/6/2012 của Quốc hội về một số cải tiến, đổi mới để nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Nghị quyết liên tịch số
525/2012/NQLT/UBTVQH13 - ĐCTUBTWMTTQVN ngày 27/9/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội và Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về
việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, Thông báo số 176-TB/TU ngày
13/8/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Trà Vinh thông báo kết luận của Bí thư Tỉnh
ủy tại cuộc họp Ban Thường vụ Tỉnh ủy tháng 7/2012 đã nêu “Đảng đoàn Hội đồng
nhân dân tỉnh nghiên cứu, xây dựng Nghị quyết về cải tiến, nâng cao chất lượng
các kỳ họp, nhất là nâng cao chất lượng trong thực hiện chất vấn và trả lời chất
vấn”. Tại cuộc họp sơ kết hoạt động tháng 8/2012 của Thường trực và các Ban
Hội đồng nhân dân tỉnh đã thống nhất giao Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân tỉnh trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng Đề án “Tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội” giúp Thường trực Hội
đồng nhân dân tỉnh xây dựng Đề án “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Hội đồng nhân dân” để trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị
quyết vào kỳ họp thường lệ cuối năm 2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh.
III.
MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU, CÁC QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
1. Mục đích, yêu cầu
- Việc xây dựng Đề án
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, đáp ứng yêu
cầu xây dựng chính quyền địa phương của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo
đảm Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan đại biểu của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của tỉnh nhà.
- Trên tinh thần đó,
việc xây dựng Đề án phải bảo đảm các yêu cầu chủ yếu sau đây:
+ Kế thừa và phát huy
có hiệu quả những kinh nghiệm và thành tựu đã đạt được của các khóa Hội đồng
nhân dân trước đây; thực hiện đổi mới, từng bước khắc phục những hạn chế, bất cập
trong thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban, các đại
biểu Hội đồng nhân dân và bộ máy giúp việc Hội đồng nhân dân.
+ Bảo đảm thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân; vừa nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động, vừa tiết kiệm thời gian làm việc của Hội đồng nhân dân.
+ Phát huy dân chủ, tập
hợp trí tuệ, tinh thần đoàn kết, hợp tác, tính chủ động sáng tạo của đại biểu Hội
đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội, các nhà khoa học và nhân dân.
2. Các quan điểm chỉ
đạo
- Thực hiện việc đổi mới
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Đề án
số 144/ĐA-UBTVQH13 ngày 18/5/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Nghị quyết số
27/2012/QH13 ngày 21/6/2012 của Quốc hội, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Trà Vinh lần thứ IX và các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động của
Hội đồng nhân dân; các đề xuất, kiến nghị qua tổng kết nhiệm kỳ Hội đồng nhân
dân các khóa trước đây, nhất là Hội đồng nhân dân khóa VII vừa qua.
- Nội dung đổi mới phải
xuất phát từ thực tiễn hoạt động của Hội đồng nhân dân, được lựa chọn một cách
thận trọng, khách quan, khoa học, bảo đảm tính kế thừa, tính khả thi và được tiến
hành đồng bộ.
- Phương án đổi mới phải
thiết thực, từng bước vững chắc, các đề xuất đổi mới phải cụ thể, thuyết phục,
được sự đồng thuận của các vị đại biểu Hội đồng nhân dân và các cơ quan, tổ chức
hữu quan, đúng quy định của luật pháp và các Nghị quyết, Nghị định của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ.
- Tập trung đổi mới
cách thức tổ chức công việc, bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban, đại biểu Hội đồng nhân dân và các cơ
quan tham mưu, giúp việc Hội đồng nhân dân.
B.
CÁC ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI
I.
TỔ CHỨC KỲ HỌP HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1. Thực hiện việc cải
tiến cách thức tổ chức kỳ họp Hội đồng nhân dân, tập trung nâng cao chất lượng
công tác chuẩn bị nội dung, chương trình, các báo cáo, tờ trình, dự thảo Nghị
quyết trình Hội đồng nhân dân; tăng cường hoạt động giữa 2 kỳ họp của đại biểu
Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân. Cụ thể, Thường trực
và các Ban Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan, tổ chức hữu quan phải
thực hiện tốt công tác chuẩn bị kỳ họp, tập trung cho việc xác định nội
dung, chương trình (cần phải làm tốt ngay từ khâu lập chương trình xây dựng nghị
quyết hàng năm nhằm hạn chế thấp nhất việc phát sinh, thay đổi nội dung kỳ họp),
xây dựng các báo cáo, tờ trình, dự thảo nghị quyết trình kỳ họp đảm bảo chất lượng,
chặt chẽ, khả thi, đúng quy trình, thủ tục và nhất là phải đúng thời gian luật
định (chậm nhất là 15 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
các dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án trình Hội đồng nhân dân tại kỳ họp phải
được gửi tới Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân); các báo cáo, tờ trình, dự
thảo nghị quyết trình kỳ họp được chuẩn bị chu đáo và gởi đến Thường trực Hội đồng
nhân dân càng sớm thì càng thuận lợi hơn, vì sẽ có quỹ thời gian nhiều hơn cho
công tác thẩm tra của các Ban và việc nghiên cứu tài liệu của đại biểu Hội đồng
nhân dân; vì vậy việc đảm bảo thời gian gởi các báo cáo, tờ trình của UBND tỉnh
đến Thường trực HĐND phải tuân thủ đúng theo thời gian luật định; trường hợp gởi
chậm sẽ không đưa vào chương trình nghị sự của kỳ họp HĐND tỉnh. Đồng thời, tăng
thời gian làm việc của Thường trực, các Ban và các đại biểu Hội đồng nhân dân
thông qua nhiều hình thức phong phú như tổ chức các cuộc làm việc, dự các cuộc
họp với các cơ quan, tổ chức hữu quan, đi nắm tình hình, khảo sát thực tế,
nghiên cứu văn bản tài liệu có liên quan,... để trao đổi, góp ý kiến vào các nội
dung trình tại kỳ họp Hội đồng nhân dân. Tổ chức công việc giữa 2 kỳ họp như vậy
phù hợp với thực tế hoạt động của Hội đồng nhân dân với cơ cấu đa số đại biểu
hoạt động kiêm nhiệm như hiện nay.
Ủy ban nhân dân tỉnh
chỉ đạo các Sở ngành, các cơ quan tham mưu làm tốt công tác chuẩn bị các nội
dung trình kỳ họp đã được phân công, đảm bảo chặt chẽ, đúng trình tự thủ tục luật
định. Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh phải có trách nhiệm theo dõi, thẩm định chặt
chẽ các nội dung (kể cả hồ sơ, quy trình, thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản,...)
do các cơ quan được phân công soạn thảo gởi đến trước khi thông qua Ủy ban nhân
dân xem xét, ký phát hành nhằm hạn chế tối đa các sai sót.
2. Chuẩn bị chương
trình kỳ họp Hội đồng nhân dân theo hướng chủ động, tích cực. Chỉ đưa vào
chương trình kỳ họp để Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định những vấn đề đã được
chuẩn bị chu đáo về nội dung, bảo đảm đúng thời hạn, thẩm quyền, quy trình, thủ
tục luật định; không đưa vào chương trình kỳ họp những nội dung chưa đạt yêu cầu,
chuẩn bị chưa chu đáo và gởi đến Thường trực Hội đồng nhân dân chậm so với thời
gian luật định; hạn chế tối đa việc xin ý kiến Hội đồng nhân dân những sự vụ, sự
việc nhất là vấn đề điều chỉnh, bổ sung ngân sách, trừ những vấn đề bức xúc, cấp
thiết; Thường trực Hội đồng nhân dân không đưa quá nhiều nội dung vào một kỳ họp
(một kỳ họp trình Hội đồng nhân dân thông qua không quá 20 tờ trình).
Các Tổ đại biểu và đại
biểu Hội đồng nhân dân căn cứ vào các Nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội, chương trình xây dựng nghị quyết, chương trình giám sát hàng năm của
Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân và dự kiến chương
trình các kỳ họp Hội đồng nhân dân để xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp, sát
với yêu cầu thực tế của địa phương; trong đó cần đặc biệt quan tâm phối hợp với
Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân trong việc triển khai thực hiện chương
trình giám sát, tổ chức cho đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc, thu thập ý kiến,
nguyện vọng của cử tri dưới nhiều hình thức. Trước kỳ họp các Tổ đại biểu phải
họp Tổ để nghiên cứu tài liệu (tài liệu chủ yếu của kỳ họp phải được gởi trước
cho đại biểu cơ bản đầy đủ và đúng thời gian luật định), phân công việc chuẩn bị
ý kiến phát biểu và ý kiến chất vấn đạt chất lượng; từng đại biểu tích cực
nghiên cứu tài liệu, chủ động thu thập thông tin trước khi họp Tổ, chuẩn bị ý
kiến đối với những vấn đề mình am hiểu, quan tâm và theo sự phân công của Tổ.
3. Bố trí thời gian
làm việc của kỳ họp khoa học, hợp lý, phù hợp với khối lượng công việc kỳ họp
phải thông qua, dành thời gian thỏa đáng cho việc thảo luận, chất vấn - trả lời
chất vấn và giải trình các kiến nghị của cử tri; trong các kỳ họp thường lệ của
Hội đồng nhân dân nhất thiết phải dành thời gian và bố trí việc thảo luận ở tổ
để việc xem xét, quyết định các vấn đề thuộc nội dung kỳ họp đạt chất lượng cao
hơn. Xem xét, thảo luận các báo cáo về kinh tế - xã hội, các đề án, báo cáo
khác tại kỳ họp Hội đồng nhân dân theo hướng trình bày tóm tắt (kể cả báo cáo tổng
hợp ý kiến kiến nghị của cử tri), rút ngắn thời gian trình bày văn bản
xuống còn khoảng từ 15 đến 20 phút (trừ báo cáo tình hình KT - XH của Ủy ban
nhân dân, báo cáo thẩm tra về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước); trong đó
tập trung thuyết trình, làm rõ những vấn đề cơ bản, quan trọng của nội dung
trình. Để việc rút ngắn thời gian trình bày không ảnh hưởng đến chất lượng xem
xét nội dung, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cần chỉ đạo chuẩn
bị sớm các nội dung gửi đại biểu Hội đồng nhân dân. Cơ quan trình và cơ quan thẩm
tra, bên cạnh việc chuẩn bị văn bản đầy đủ gởi trước để đại biểu nghiên cứu, cần
chuẩn bị báo cáo tóm tắt để trình bày. Văn bản của cơ quan, tổ chức trình phải
nêu rõ nội dung cần trình, những vấn đề quan trọng, ý kiến còn khác nhau (nếu
có). Thời gian phát biểu của đại biểu tại hội trường lần đầu không quá 10 phút,
lần sau không quá 7 phút.
Báo cáo thẩm tra của
các Ban cần phải tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật; cần viết ngắn gọn,
bám sát các quy định của pháp luật, tập trung phân tích, đưa ra các kiến
nghị về các nội dung được nêu trong báo cáo, tờ trình; nội dung nào không đồng
ý hoặc đề nghị bổ sung thì nêu cơ sở, lập luận, lý lẽ cụ thể; đồng thời nêu rõ
những vấn đề quan trọng, còn ý kiến khác nhau và đề xuất phương án xử lý; báo
cáo thẩm tra phải thể hiện chính kiến, có tính phản biện và phải bảo vệ quan điểm
của mình đối với những vấn đề không phù hợp với quy định của pháp luật. Ủy ban
nhân dân tỉnh cần tạo điều kiện cho các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh tham gia góp
ý ngay từ khi xây dựng dự thảo các báo cáo, tờ trình về các nội dung dự kiến sẽ
trình thông qua tại kỳ họp và căn cứ chương trình xây dựng nghị quyết hàng năm
của HĐND tỉnh, các Ban chủ động đi khảo sát về những nội dung quan trọng, bức
xúc mà mình quan tâm, làm cơ sở để thẩm tra các tờ trình của Ủy ban nhân dân tỉnh.
Khi thẩm tra nên mời các cơ quan chủ trì chuẩn bị nội dung, các cơ quan có liên
quan, nếu cần thiết có thể mời thêm các chuyên gia, người am hiểu sâu sắc về
các vấn đề thẩm tra,... cùng dự họp để có thông tin nhiều chiều, nâng cao chất
lượng báo cáo thẩm tra.
4. Xây dựng nghị quyết
của Hội đồng nhân dân theo hướng: trước kỳ họp, Thường trực Hội đồng nhân dân
phối hợp với Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức hữu quan dự kiến các nội
dung trình Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết và cơ quan chủ trì xây dựng dự
thảo nghị quyết. Đối với các nội dung về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước,
quốc phòng an ninh, công trình, dự án quan trọng,..., cơ quan trình phải dự thảo
nghị quyết cùng với dự án, đề án, báo cáo, tờ trình, đặc biệt là phải đảm bảo
đúng pháp luật và trình tự thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đối với
các nội dung thẩm tra tờ trình để ban hành nghị quyết, các Ban Hội đồng nhân
dân được giao tổ chức chủ trì chuẩn bị và chịu trách nhiệm trước khi trình ra Hội
đồng nhân dân; Thư ký kỳ họp cùng Văn phòng Hội đồng nhân dân và cơ quan dự thảo
nghị quyết tiếp thu ý kiến của đại biểu và các Ban Hội đồng nhân dân, hoàn thiện
dự thảo nghị quyết trình Chủ tịch Hội đồng nhân dân ký chứng thực. Cơ quan chủ
trì dự thảo nghị quyết được chủ động tổ chức Tổ biên tập để chuẩn bị dự thảo,
có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, các nhà khoa
học, cán bộ đầu ngành trong trường hợp cần thiết. Đối với các tờ trình
xét thấy không khả thi, thiếu cơ sở pháp lý sẽ không trình ra Hội đồng nhân
dân.
II.
CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN
1. Chất vấn tại kỳ họp:
Thường trực Hội đồng nhân dân gởi phiếu chất vấn cho đại biểu cùng với giấy triệu
tập kỳ họp; bố trí phiên chất vấn vào cuối kỳ họp để đại biểu Hội đồng
nhân dân có thời gian chuẩn bị câu hỏi chất vấn. Các vị đại biểu Hội đồng nhân
dân cần chủ động, tích cực thực hiện quyền chất vấn của mình trong phiên chất vấn
và trở thành quy định trách nhiệm của mỗi Tổ đại biểu phải có ít nhất có 3
nội dung chất vấn tại mỗi kỳ họp; chất vấn được thực hiện bằng phiếu hoặc
chất vấn trực tiếp qua đối thoại; đại biểu Hội đồng nhân dân cần đầu tư
nghiên cứu, thu thập đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề mà mình chất vấn để
ý kiến chất vấn có chất lượng và mang tính thuyết phục hơn; câu hỏi chất vấn phải
ngắn gọn, rõ ý, đúng trọng tâm, không giải thích dài hoặc chỉ hỏi để biết
thông tin, tập trung vào các thông tin quan trọng như: trách nhiệm thuộc về ai,
giải pháp sắp tới là gì, thời gian nào thực hiện xong,... Thường trực Hội đồng
nhân dân lựa chọn một số vấn đề bức xúc, nổi cộm mà dư luận xã hội, cử tri và đại
biểu Hội đồng nhân dân quan tâm (đã được đại biểu gởi phiếu chất vấn), dự kiến
danh sách những người trả lời chất vấn kết hợp với giải trình ý kiến kiến nghị
của cử tri gửi xin ý kiến các vị đại biểu Hội đồng nhân dân và thông báo trước
để đại biểu có thời gian chuẩn bị câu hỏi trực tiếp đối với người trả lời chất
vấn.
2. Trả lời chất vấn tại
kỳ họp: Tại phiên chất vấn, người trả lời chất vấn (thành viên Ủy ban nhân dân
tỉnh, người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp) trả lời ngắn
gọn, trực tiếp vào nội dung trọng tâm câu hỏi, tránh giải thích không đi
vào nội dung, thời gian trả lời theo yêu cầu của chủ tọa. Sau khi người trả lời
chất vấn trả lời xong câu hỏi chất vấn, các đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền
đặt câu hỏi trực tiếp với người trả lời chất vấn theo hướng đối thoại, tranh luận
làm rõ từng vấn đề được chất vấn; những vấn đề nào chưa trả lời tại kỳ họp được
thì Chủ tọa yêu cầu cơ quan, cá nhân được chất vấn trả lời bằng văn bản cho đại
biểu có ý kiến chất vấn.
3. Căn cứ vào kết
quả chất vấn và trả lời chất vấn tại hội trường, Thường trực Hội đồng nhân dân
xem xét nếu cần thiết thì trình Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết về chất vấn,
trách nhiệm của người trả lời chất vấn và việc thực hiện lời hứa trước Hội đồng
nhân dân.
4. Chất vấn và giải
trình tại cuộc họp của Thường trực Hội đồng nhân dân: hàng năm tổ chức ít nhất
2 lần chất vấn và giải trình giữa 2 kỳ họp Hội đồng nhân dân (chất vấn, giải
trình của thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh, người đứng đầu các cơ quan chuyên
môn thuộc Ủy ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án
nhân dân cùng cấp,...) tại cuộc họp của Thường trực Hội đồng nhân dân về những
vấn đề Thường trực Hội đồng nhân dân quan tâm; trong chất vấn, giải trình có thể
mời thêm thành phần là các đại biểu Hội đồng nhân dân, đồng thời thông báo để
các đại biểu Hội đồng nhân dân quan tâm đăng ký tham dự. Tổ chức phát trên Đài
truyền hình, thông tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về hoạt
động chất vấn, giải trình để nhân dân theo dõi. Từng bước hoàn thiện quy trình,
thủ tục tổ chức chất vấn tại cuộc họp Thường trực Hội đồng nhân dân.
III.
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
1. Hàng năm, Thường trực
Hội đồng nhân dân trình Hội đồng nhân dân thông qua Chương trình giám sát tại kỳ
họp cuối năm trước để có thời gian, điều kiện triển khai thực hiện. Tổ chức
giám sát ít nhất 1 chuyên đề tại mỗi kỳ họp thường lệ của Hội đồng nhân dân để
đại biểu Hội đồng nhân dân phát huy quyền giám sát tại kỳ họp bằng việc đặt những
câu hỏi trực tiếp xung quanh chuyên đề giám sát tại kỳ họp. Tăng các hoạt động
giám sát chuyên đề của các Ban Hội đồng nhân dân giữa 2 kỳ họp. Nội dung giám
sát tập trung vào những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, được dư luận xã hội, cử
tri và các vị đại biểu Hội đồng nhân dân quan tâm. Tăng cường giám sát hoạt động
của các cơ quan tư pháp; việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
của công dân; việc thực hiện các dự án, công trình XDCB trên địa bàn; việc chi
tiêu ngân sách nhà nước,...; khi cần thiết kiến nghị Hội đồng nhân dân xem xét
kết quả giám sát và ban hành nghị quyết về giám sát, xác định trách nhiệm đối với
cơ quan, đơn vị, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện quá chậm nghị quyết của
Hội đồng nhân dân về giám sát để kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét xử lý.
2. Căn cứ vào chương
trình giám sát hàng năm của Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban và Tổ đại
biểu Hội đồng nhân dân xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động giám sát và mời
các đại biểu Hội đồng nhân dân tham gia hoạt động giám sát tại các địa bàn đại
biểu ứng cử. Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo, điều hòa, phối hợp việc tổ
chức các hoạt động giám sát của Thường trực và các Ban Hội đồng nhân dân, tránh
sự trùng lắp, chồng chéo, bảo đảm trong cùng một thời điểm chỉ có một đoàn giám
sát của Hội đồng nhân dân tại một cơ quan, đơn vị, địa phương, cơ sở. Các đoàn
giám sát đến làm việc tại cơ quan, đơn vị, địa phương, cơ sở phải gởi sớm
chương trình, kế hoạch làm việc, xác định cụ thể nội dung công việc nhằm nâng
cao chất lượng giám sát, thành phần đoàn giám sát phải thiết thực, gọn nhẹ,
thông hiểu được công việc; báo cáo giám sát phải trung thực, khách quan, có kiến
nghị, đề xuất qua giám sát. Đặc biệt là phải theo dõi, đôn đốc hậu
giám sát. Các đơn vị được giám sát và các đơn vị có liên quan phải thực hiện
nghiêm túc các kiến nghị của đoàn giám sát, chậm nhất không quá 60 ngày các đơn
vị phải có báo cáo trả lời việc thực hiện các kiến nghị của đoàn giám sát, nếu
đơn vị không khắc phục theo kiến nghị của Đoàn giám sát thì báo cáo cấp có thẩm
quyền xem xét, xử lý và báo cáo với Hội đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất; hàng
năm, trong báo cáo kết quả thực hiện Chương trình giám sát của HĐND phải có
đánh giá về công tác giám sát và việc thực hiện các kiến nghị của các đoàn giám
sát; đối với các đơn vị được giám sát phải bố trí đúng thành phần tham dự, nhất
là thủ trưởng các đơn vị phải có mặt.
IV.
HOẠT ĐỘNG TIẾP XÚC CỬ TRI
1. Tổ chức nhiều hoạt
động và hình thức tiếp xúc cử tri phù hợp, bảo đảm để đại biểu Hội
đồng nhân dân tiếp xúc với cử tri ở đơn vị bầu cử, nơi cư trú, nơi công tác; mở
rộng việc đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện được tiếp xúc cử tri
luân phiên ở các huyện, các xã không phải nơi mình ứng cử; tiếp xúc cử tri theo
chuyên đề, lĩnh vực, đối tượng, địa bàn mà đại biểu quan tâm. Đại biểu Hội đồng
nhân dân phải dành thời gian tiếp xúc, thâm nhập đời sống nhân dân, nắm bắt,
tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri ở địa bàn ứng cử; tích cực thực hiện việc
tiếp xúc cử tri nơi công tác, nơi cư trú, tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lĩnh
vực, đối tượng, địa bàn mà mình lựa chọn. Khi tổ chức tiếp xúc cử tri, cần kết
hợp chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân các cấp với tinh thần khoa học và phù hợp với
tình hình thực tế ở địa phương để giảm bớt thời gian cho nhân dân. Nội dung chuẩn
bị cho cuộc tiếp xúc cử tri phải thật sự cô đọng và chất lượng, gắn nội dung tiếp
xúc cử tri của đại biểu với việc chuẩn bị kỳ họp Hội đồng nhân dân; hình thức
tiếp xúc cử tri phải chu đáo, nghiêm trang, có khẩu hiệu, bảng tên đại biểu Hội
đồng nhân dân; đại biểu Hội đồng nhân dân cần nắm vững lượng
thông tin nhất định về tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa
bàn tỉnh, huyện, xã để kết hợp trình bày với cử tri để cuộc tiếp xúc thêm phần
sinh động.
Căn cứ tình hình thực
tế của từng địa phương, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân chủ động phối hợp với Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc và chính quyền địa phương các cấp tạo điều kiện để đại biểu
Hội đồng nhân dân có các hoạt động và nội dung, hình thức tiếp xúc cử tri phù hợp,
nghiêm túc.
2. Thông báo công khai
nội dung, chương trình, lịch tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân
trên phương tiện thông tin đại chúng từ tỉnh đến huyện - thành phố và xã, phường,
thị trấn trước từ 5 đến 7 ngày để nhân dân biết tham dự; tạo điều kiện thuận lợi
để cử tri có thể tham dự các cuộc tiếp xúc cử tri; bảo đảm để đại biểu Hội đồng
nhân dân trực tiếp gặp gỡ với cử tri; hạn chế thủ tục hành chính, tiếp xúc “đại
cử tri”; tạo không khí cởi mở, dân chủ, trao đổi thẳng thắn giữa cử tri với đại
biểu và dành thời gian thích đáng để cử tri nêu ý kiến, kiến nghị. Đại diện cơ
quan, tổ chức, đơn vị chức năng của từng cấp có trách nhiệm tham dự để tiếp
thu, giải trình, trả lời kiến nghị của cử tri đối với những vấn đề có liên
quan.
Tăng cường tiếp xúc trực
tiếp; phân định trách nhiệm giải quyết kiến nghị của từng cấp, từng cơ quan, tổ
chức đúng thẩm quyền; tiếp nhận, xử lý các kiến nghị hoặc kịp thời chuyển các
kiến nghị đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết; trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan
có trách nhiệm nghiên cứu, giải quyết và trả lời các kiến nghị chính đáng của cử
tri. Từng đại biểu Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban Hội đồng nhân dân và
Văn phòng Hội đồng nhân dân có kế hoạch theo dõi, giám sát việc giải quyết kiến
nghị và thông báo kết quả giải quyết đến cử tri, bảo đảm mọi kiến nghị của cử
tri dù được giải quyết hay chưa được giải quyết đều được trả lời công khai,
đúng thời hạn luật định.
3. Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc tỉnh phối hợp chặt chẽ với Thường trực Hội đồng nhân dân và có trách nhiệm
điều hành, tổ chức Tổ thư ký cho các cuộc tiếp xúc cử tri để theo dõi tổng hợp
ý kiến, kiến nghị của cử tri, từ đó phân rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp
trong việc trả lời và thực hiện nghiêm túc các kiến nghị của cử tri. Trong tổng
hợp ý kiến kiến nghị của cử tri cần sàng lọc kỹ nội dung thuộc thẩm quyền,
trách nhiệm của từng cấp, đưa ra kỳ họp Hội đồng nhân dân để các cấp, các ngành
trả lời và qua đó Mặt trận Tổ quốc thực hiện chất vấn, giám sát. Sớm xây dựng
Quy chế phối hợp giữa Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh với Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc tỉnh về việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Trong quá trình tổ chức
thực hiện việc tiếp xúc cử tri như phần IV của Đề án này, các đại biểu Hội đồng
nhân dân, tùy theo chức trách nhiệm vụ cần nghiên cứu, vận dụng các quy định,
hướng dẫn của Nghị quyết liên tịch số 525/2012/NQLT/UBTVQH13 - ĐCTUBTWMTTQVN
ngày 27/9/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội,
để hoạt động tiếp xúc cử tri đạt chất lượng, hiệu quả thiết thực.
V.
CÔNG TÁC TIẾP CÔNG DÂN
1. Thực hiện tốt công
tác tiếp công dân theo quy định tại Điều 53 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân và Điều 48 Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân ngày 02/4/2005
của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI.
Thường xuyên tổ chức
tiếp công dân tại cơ quan để trao đổi, giải thích, hướng dẫn công dân đến khiếu
nại, tố cáo và tiếp nhận, nghiên cứu xem xét, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo của công dân hoặc chuyển đến các ngành, các cấp xem xét, giải quyết theo thẩm
quyền; đồng thời thường xuyên theo dõi, đôn đốc các ngành, các cấp giải quyết
đúng thời gian luật định.
Tích cực tham gia, phối
hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành chức năng thực hiện việc tiếp công
dân định kỳ tại trụ sở tiếp công dân tỉnh theo quy định.
2. Thường trực Hội đồng
nhân dân tỉnh tổ chức việc tiếp công dân định kỳ 1 ngày/tháng và thông báo rộng
rãi lịch tiếp công dân hàng tháng của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh để
nhân dân biết đăng ký tham dự. Khi tổ chức tiếp công dân, tùy theo nội dung và
tính chất của khiếu nại, tố cáo, Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh sẽ mời đại
diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Thanh tra tỉnh và các Sở ngành hữu quan cùng
tham dự để nâng cao chất lượng tiếp công dân cũng như việc xem xét, giải quyết
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân theo luật định.
VI.
CÔNG TÁC BẢO ĐẢM CHO HOẠT ĐỘNG
1. Công tác báo chí,
tuyên truyền: tạo điều kiện thuận lợi để báo chí tiếp cận, đưa tin về hoạt động
của Hội đồng nhân dân, Thường trực, các Ban, Tổ đại biểu và đại biểu Hội đồng
nhân dân. Phối hợp với Đài Phát thanh Truyền hình Trà Vinh xây dựng chuyên mục
hoạt động của Hội đồng nhân dân mỗi tháng phát 1 lần và gắn với chuyên mục
“nghe người dân nói” của Đài Phát thanh Truyền hình Trà Vinh để thông tin về
các hoạt động của Hội đồng nhân dân; đồng thời phối hợp với Báo Trà Vinh xây dựng
chuyên trang về hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp. Tăng cường tổ chức
truyền hình trực tiếp các phiên khai mạc, chất vấn, trả lời chất vấn kết hợp với
giải trình ý kiến kiến nghị của cử tri và phiên bế mạc tại các kỳ họp Hội đồng
nhân dân tỉnh.
2. Lập kế hoạch trang
bị máy tính (laptop) phục vụ hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân
dân tỉnh để nâng cao chất lượng hoạt động của người đại biểu nhân dân.
3. Kiện toàn bộ máy cơ
quan tham mưu, giúp việc theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả; tăng cường số lượng
và nâng cao chất lượng của đội ngũ chuyên viên; phân công, phân nhiệm cụ thể,
rõ ràng; có sự liên thông, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm không chồng chéo
và phân tán nguồn lực, phục vụ có hiệu quả các hoạt động của Hội đồng nhân dân,
Thường trực, các Ban và đại biểu Hội đồng nhân dân.
C.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Thường trực Hội đồng
nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân; Ủy ban
nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh
và các cơ quan, tổ chức hữu quan theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
có trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về “đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân”.
2. Giao Thường trực Hội
đồng nhân dân tỉnh chủ trì triển khai, tổ chức thực hiện cụ thể các nội dung của
Đề án sau khi được Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét, thông qua.
Trên đây là Đề án đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân. Đề án này
đã được thông qua Đảng đoàn, Thường trực và các Ban Hội đồng nhân dân tỉnh. Thường
trực Hội đồng nhân dân tỉnh kính trình Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét, thông
qua Nghị quyết về “đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân” để có thể triển khai thực hiện ngay từ đầu năm 2013./.