Nghị quyết 24/NQ-HĐND năm 2022 về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng

Số hiệu 24/NQ-HĐND
Ngày ban hành 20/07/2022
Ngày có hiệu lực 20/07/2022
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Thành phố Hải Phòng
Người ký Phạm Văn Lập
Lĩnh vực Bất động sản,Bộ máy hành chính

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 24/NQ-HĐND

Hải Phòng, ngày 20 tháng 7 năm 2022

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ KẾT QUẢ GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
KHÓA XVI, KỲ HỌP THỨ 6

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Luật Đất đai ngày 29 tháng 11 năm 2013;

Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân ngày 20 tháng 11 năm 2015;

Xét Tờ trình số 02/TTr-HĐND ngày 15 tháng 7 năm 2022 của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố về việc đề nghị ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố về kết quả giám sát việc thực hiện các chính sách, pháp luật về quản lý đất đai trên địa bàn thành phố và Báo cáo kết quả giám sát số 12/HĐND-ĐGSCĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022 của Đoàn giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân thành phố về thực hiện các chính sách, pháp luật về quảnđất đai trên địa bàn thành phố; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố tại kỳ họp.

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Đánh giá tình hình

1. Tán thành với nội dung Báo cáo số 12/BC-ĐGSCĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022 của Đoàn giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân thành phố về việc thực hiện các chính sách, pháp luật về quản lý đất đai trên địa bàn thành phố.

2. Qua xem xét Báo cáo của Đoàn giám sát, Hội đồng nhân dân thành phố nhận thấy: Thời gian qua, công tác quản lý, sử dụng đất đai tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã có nhiều chuyển biến tích cực, đi vào nề nếp, đã cơ bản chấm dứt phát sinh mới việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trái thẩm quyền, không phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; khắc phục căn bản tình trạng sử dụng đất sai mục đích được giao không đúng quy hoạch, kế hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, cho thuê đất, cho mượn đất không đúng quy định pháp luật, không đưa đất vào sử dụng, đầu cơ đất, lãng phí tài nguyên đất, quy hoạch treo, dự án “treo”. Đất đai được xem xét phân bổ hợp lý hơn, được sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả cao hơn tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách thành phố. Thành phố đã bảo toàn được quỹ đất lúa, quan tâm đến công tác bảo vệ và phát triển rừng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển bền vững.

Các ngành, các cấp đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 06/2016/NQ-HĐND ngày 29 tháng 3 năm 2016 của Hội đồng nhân dân thành phố về nhiệm vụ, giải pháp thu hồi diện tích đất đã giao, cho thuê không đúng đối tượng, không đúng thẩm quyền, chậm đưa vào sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích gây lãng phí tài nguyên đất, việc đổi mới các khâu trong công tác giải phóng mặt bằng đã mang lại hiệu quả rệt, thu hút được các nhà đầu tư lớn tham gia sản xuất kinh doanh tại thành phố, đưa đất đai trở thành nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Nhiều dự án sử dụng đất được thành phố triển khai đã trở thành động lực cho tăng trưởng và phát triển của các vùng kinh tế, đô thị lớn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý và sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vẫn còn một số hạn chế, bất cập chủ yếu sau đây:

- Việc giao quyền sử dụng đất, phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hng năm đối với quận, huyện thực hiện chậm, chưa đảm bảo thời gian quy định; chưa triển khai việc lập quy hoạch vùng huyện và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hằng năm đối với huyện Bạch Long Vỹ.

- Công tác rà soát, đánh giá, xác định nhu cầu sử dụng đất khi lập kế hoạch sử dụng đất hằng năm chưa sát, nên tính khả thi của kế hoạch chưa cao, phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, kết quả thực hiện thấp, nhiều dự án chậm triển khai thực hiện hoặc dừng không tiếp tục thực hiện; đặc biệt có nhiều dự án đầu tư kéo dài qua nhiều năm nhưng chưa được xử lý dứt điểm, gây ảnh hưởng đến quyn của người sử dụng đất bị hạn chế, sinh hoạt của người dân trong vùng quy hoạch “treo”, dự án “treo” bị ảnh hưởng.

- Một số chỉ tiêu sử dụng đất đạt tỷ lệ thực hiện còn thấp, việc quản lý, sử dụng đất bãi bồi ven sông, ven biển, đất mặt nước, ven biển còn lỏng lẻo, hiệu quả sử dụng thấp, chồng chéo, tranh chấp, khiếu kiện, thất thoát nguồn thu; vẫn còn tình trạng bỏ ruộng không canh tác.

- Tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật đất đai còn nhiều, phức tạp, kéo dài, chưa được phát hiện, xử lý kịp thời, dứt điểm, nhất là việc xây dựng nhà, công trình trên đất nông nghiệp, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, đất trồng lúa; lấn, chiếm, sử dụng đất hành lang các công trình kỹ thuật, thoát lũ,....

- Công tác quản nhà nước về đất đai ở cấp cơ sở chưa nghiêm, thiếu kiên quyết trong việc phát hiện, ngăn chặn và khắc phục hậu quả các hành vi vi phạm; công tác thanh tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện các dự án sử dụng đất chưa thường xuyên, chưa chặt chẽ nên còn nhiều dự án chậm đưa đất vào sử dụng, tiến độ thực hiện dự án kéo dài chưa được xử lý kịp thời.

- Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đất đai còn rất chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, sử dụng đất thực tiễn đặt ra hiện nay.

Những hạn chế, bất cập nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ yếu như sau: Một số quy định của pháp luật về quản lý đất đai, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn thiếu đồng bộ, chưa thống nhất, khó khăn khi triển khai thực hiện; nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, chưa đáp ứng với nhu cu phát triển của các địa phương; nhận thức, trách nhiệm của bộ phận cán bộ, công chức làm công tác quản lý đất đai tại các cấp còn hạn chế, thiếu về số lượng, chất lượng chưa đáp ứng; công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong quản lý đất đai, quản lý thực hiện dự án chưa chặt chẽ; ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa cao.

Điều 2. Nhiệm vụ và giải pháp

Để khắc phục hạn chế, bất cập nêu trên, Hội đồng nhân dân thành phố đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố tập trung chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

- Khẩn trương chỉ đạo việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các huyện đảm bảo chi tiêu sử dụng đất được phân bổ tại Quyết định số 326/2022/QĐ-TTg ngày 09 tháng 3 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ; triển khai việc lập, phê duyệt quy hoạch các vùng huyện theo quy định của pháp luật xây dựng; phê duyệt kế hoạch sử dụng đất hàng năm của các quận, huyện đảm bảo thời gian theo quy định; thực hiện công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

- Nâng cao chất lượng, tính khả thi của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; bám sát các chỉ tiêu sử dụng đất được giao, tăng cường thẩm định năng lực của nhà đầu tư và khả năng đảm bảo nguồn vốn, xác định kỹ nhu cầu sử dụng đất; rà soát, phân loại và chấm dứt thực hiện các dự án không đủ điều kiện, chậm triển khai thực hiện ra khỏi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

- Tiếp tục rà soát, xác định các dự án đang sử dụng đất vi phạm Luật Đất đai năm 2013 và xử lý theo đúng quy định của pháp luật; kiên quyết không chấp thuận, phê duyệt mới các dự án hoặc giao đất cho các chủ đầu tư đang dự án chậm triển khai, vi phạm pháp luật đất đai; kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc đặc biệt trong công tác giải phóng mặt bằng, bàn giao đất cho nhà đầu tư đúng tiến độ.

- Kiểm soát chặt chẽ việc quản lý và sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; rà soát, xử dứt điểm các vi phạm liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, ln, chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định của pháp luật, xử lý nghiêm các quan, cá nhân có trách nhiệm trong việc để xảy ra các sai phạm.

- Ưu tiên đầu tư nguồn lực để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin quản lý, sử dụng đất đai, hoàn thiện hồ địa chính chính quy, thống nhất ba cấp. Khẩn trương thực hiện việc thống kê, đo đạc, lập hồ sơ địa chính quản lý, sử dụng quỹ đất bãi bồi ven sông, đất mặt nước chuyên dùng, mặt nước ven biển để quản lý, sử dụng có hiệu quả; xây dựng kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện việc giao rừng, cho thuê rừng theo quy định của pháp luật.

[...]