Nghị quyết số 229-CP về việc đẩy mạnh sản xuất màu trong hai năm 1979-1980 do Hội đồng Chính phủ ban hành

Số hiệu 229-CP
Ngày ban hành 15/09/1978
Ngày có hiệu lực 30/09/1978
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Hội đồng Chính phủ
Người ký Lê Thanh Nghị
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******

Số: 229-CP

Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 1978

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT MÀU TRONG HAI NĂM 1979 - 1980

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành trung ương Đảng đã nêu rõ: “đồng thời với việc ra sức thâm canh, tăng năng suất, tăng vụ và mở rộng diện tích lúa ở những nơi có điều kiện, cần phải tập trung chỉ đạo để tăng nhanh diện tích, năng suất và sản lượng màu ở tất cả các vùng, tổ chức tốt việc chế biến màu, đưa màu vào cơ cấu lương thực chính của người, tăng nguồn thức ăn cho chăn nuôi”.

Thực tiễn của việc sản xuất màu trong 2 năm qua đã chứng minh chủ trương nói trên là hoàn toàn đúng đắn. Ở những địa phương làm đúng như Bình Trị Thiên, Nghĩa Bình, Quảng Nam – Đà Nẵng, Phú Khánh, Đắc Lắc, Gia Lai – Kon Tum, v.v… từ  chỗ thiếu lương thực nghiêm trọng đã đi đến tự giải quyết được lương thực, ổn định được đời sống của nhân dân trong địa phương, làm tốt nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước, phát triển được chăn nuôi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn hóa và củng cố quốc phòng…

Mặc dầu ở nhiều nơi khác, việc phát triển màu chưa được chú ý đúng mức, tính chung cả nước, mấy năm gần đây sản lượng màu vẫn tăng đều ổn định hơn sản lượng lúa, tỷ trọng màu trong sản lượng lương thực năm 1975 chiếm 10,2% năm 1978 đã tăng lên 17,3%. Năm 1977 so với năm 1975 sắn tăng hơn hai lần, ngô tăng gần hai lần, khoai tây tăng gần ba lần, cao lương cũng đang phát triển.

Coi trọng việc phát triển màu là phù hợp với thực tế khách quan ở nước ta, một nước mà dân số tăng nhanh, lương thực chưa đủ ăn, trong khi đó diện tích có thể làm lúa nước lại thiếu điều kiện mở rộng nhiều và diện tích đất đai có thể trồng màu còn lớn, có nhiều thuận lợi để phát triển nhanh.

Trong thời gian trước mắt, một mặt, cần phải cố gắng đẩy mạnh xây dựng thủy lợi để mở rộng diện tích và thâm canh lúa nước; mặt khác, cần phải ra sức phát triển màu để cùng với lúa nước bảo đảm giải quyết lương thực cho người, thức ăn cho chăn nuôi và có thêm thóc, thêm màu để xuất khẩu. Đây là những việc làm cấp bách, bất kỳ trong tình hình nào cũng phải bảo đảm thực hiện cho được để đạt mục tiêu kế hoạch quan trọng ghi trong nghị quyết Đại hội IV của Đảng: năm 1980, phải đạt 21 triệu tấn lương thực quy ra thóc. Trong đó, phải phấn đấu đạt từ 14 triệu tấn đến 14,5 triệu tấn thóc; 6,5 triệu đến 7 triệu tấn còn lại phải được thực hiện bằng màu quy ra thóc.

Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, cần phải bảo đảm vững chắc việc cân đối lương thực trong tay Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu về phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng và duy trì mọi hoạt động bình thường của đời sống xã hội. Muốn vậy ít nhất đến năm 1980, phải bảo đảm số lương thực trong tay Nhà nước đạt 5 triệu tấn, gồm 3 triệu tấn thóc và 2 triệu tấn màu quy ra thóc. Có đạt được các mục tiêu sản xuất và huy động lương thực trên đây, thì nền kinh tế mới vượt qua được một số khó khăn gay gắt.

Hiện nay, trong tình hình khó khăn về lương thực đang chi phối nhiều mặt của nền kinh tế quốc dân, nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất màu để chủ động về lương thực là một khâu trọng yếu mà chúng ta phải nắm để thực hiện cho kỳ được.

Các ngành, các cấp phải thể hiện tinh thần tập trung cao độ lực lượng của cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp toàn diện, đẩy mạnh sản xuất lương thực trong hai năm 1979 – 1980, trong đó việc phát triển màu có vị trí quan trọng đặc biệt. Phải có những cách làm sáng tạo, khắc phục tư tưởng rụt rè, bảo thủ, sợ khó, phát động quần chúng quyết tâm thực hiện.

I. NHIỆM VỤ SẢN XUẤT  MÀU TRONG HAI NĂM 1979 - 1980

Đến năm 1980, bên cạnh mục tiêu về sản lượng lúa, phải đạt cho được sản lượng màu từ 6,5 đến 7 triệu tấn quy ra thóc, trong đó Nhà nước phải thu mua được khoảng 2 triệu tấn.

Để tạo ra bước phát triển vượt bậc trong sản xuất màu, phải ra sức thâm canh trên đất màu hiện có, đẩy mạnh tăng vụ đồng thời đẩy mạnh phục hóa, khai hoang, mở thêm diện tích trồng màu ở tất cả các vùng, các sơ sở sản xuất nông nghiệp. Mở rộng diện tích vụ đông ở đồng bằng và trung du Bắc bộ để tăng nhanh sản xuất khoai tây, khoai lang, ngô, v.v…; nhanh chóng mở rộng diện tích vụ đông trên đất trồng một vụ lúa ở đồng bằng sông Cửu Long để trồng cao lương, khoai lang, ngô, v.v…; các tỉnh ở khu 4 và khu 5 cũ phải đẩy mạnh hơn nữa phong trào sản xuất màu; các tỉnh ở miền núi Bắc bộ cần đặc biệt chú ý đẩy mạnh sản xuất màu để sớm xây dựng cơ sở hậu cần tại chỗ về lương thực, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; nhanh chóng xây dựng những vùng trồng màu tập trung lớn ở miền đông Nam bộ và Tây Nguyên.

Sản lượng màu của các vùng miền núi và trung du Bắc bộ, đồng bằng sông Hồng, khu 4 cũ, khu 5 cũ, đồng bằng sông Cửu Long phải đạt 5 triệu tấn quy ra thóc. Riêng ở miền đông Nam bộ và Tây Nguyên, phải tổ chức sản xuất màu tập trung lớn đạt gần 1 triệu tấn và trong nhân dân cố gắng đạt trên 1 triệu tấn quy ra thóc.

Tỉnh nào, huyện nào cũng phải phát động và tổ chức phong trào toàn dân thực hiện khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, đẩy mạnh trồng màu ở mọi vùng, mọi nơi trong cả nước, bao gồm các loại cây màu có bột: sắn, ngô, cao lương, khoai lang, khoai tây và các cây có bột khác như dong riềng, khoai nước, mì mạch, kê, v.v…, nhằm góp phần giải quyết nhu cầu tại chỗ về lương thực của từng huyện, từng tỉnh.

Đi đôi với kế hoạch sản xuất, thu hoạch màu, phải có ngay kế hoạch chế biến, vận chuyển, lưu thông, tiêu thụ màu, phát triển công nghiệp chế biến màu, phát triển chăn nuôi, nâng cao nhanh hiệu quả kinh tế toàn diện của sản xuất màu ở tất cả các vùng.

Để đẩy mạnh sản xuất màu theo yêu cầu trên, các tỉnh, các huyện phải tổ chức lực lượng, có chương trình, kế hoạch, có sự phân công hợp tác để giải quyết một cách đồng bộ các vấn đề có liên quan như quy hoạch, thiết kế, tăng vụ, khai hoang, bảo vệ đất, bảo vệ môi trường, thâm canh, luân canh, chăn nuôi, giống, phân bón, công cụ lao động, tổ chức chế biến, tiêu thụ, v.v…

Theo kinh nghiệm trong mấy năm qua, phải giải quyết bằng được hai vấn đề sau đây:

1. Tập trung giải quyết các khó khăn về thu hoạch, chế biến, vận chuyển, tiêu thụ màu.

Các tỉnh, huyện phải cung cấp đủ công cụ cho cơ sở để thu hoạch màu. Đến mùa thu hoạch màu, tùy theo điều kiện cụ thể, các tỉnh, huyện được phép tập trung lao động ở địa phương kể cả huy động cán bộ, công nhân, viên chức, học sinh, nhân dân lao động phi nông nghiệp tham gia việc thu hoạch màu, nhưng phải tổ chức và chỉ đạo chặt chẽ.

Trong việc chế biến màu, phải chế biến tại chỗ là chính (nếu chưa chế biến kịp thành sản phẩm tinh, thì chủ yếu là chế biến thành sản phẩm thô như sắn lát, sắn đuôi, khoai lát, bột thô v.v…); dùng công cụ cải tiến và thủ công là chính, do hợp tác xã và nhân dân làm là chính. Bộ Nông nghiệp chịu trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn việc sơ chế màu trong nhân dân. Bộ Lương thực và thực phẩm lo chỉ đạo việc chế biến thành tinh bột và sản phẩm khác. Bộ Cơ khí và luyện kim có trách nhiệm chỉ đạo hướng dẫn các xí nghiệp cơ khí chế tạo công cụ, máy móc chế biến màu. Cần có kế hoạch cung cấp công cụ và phương tiện chế biến cho các cơ sở, cung cấp thêm vật liệu để làm sân phơi, nhà kho, bao bì, bảo đảm màu được làm khô và bảo quản tốt.

Cần tổ chức việc tiêu thụ màu ngay tại địa phương, đưa màu vào cân đối lương thực, cân đối thức ăn cho chăn nuôi tại địa phương là chính. Trừ khoai tây có thể cung cấp dưới dạng tươi thay một phần lương thực cho nhân khẩu phi nông nghiệp, nói chung đối với các loại màu khác, khi dùng để cung cấp theo tiêu chuẩn định lượng, cần phải sơ chế hoặc tinh chế để bảo đảm chất lượng phục vụ tốt cho người tiêu dùng.

Bộ Lương thực và thực phẩm, Bộ Nội thương và Bộ Nông nghiệp có trách nhiệm hướng dẫn kỹ thuật, giúp đỡ phương tiện cho các đơn vị cơ sở, cho nhân dân để tự chế biến màu thành những món ăn thông dụng hàng ngày, tạo thành tập quán dùng màu trong bữa ăn ở tất cả các vùng, kể cả thành thị và khu công nghiệp.

Cải tiến việc thu mua màu với mạng lưới thu mua rộng khắp, thuận tiện cho người sản xuất, nhất là ở vùng núi, giao thông vận tải có khó khăn.

2. Ban hành các chính sách khuyến khích sản xuất chế biến, tiêu thụ màu.

Bộ Nông nghiệp chủ động bàn bạc với các ngành có liên quan và các ngành này phải tích cực tham gia theo chức năng của mình để từ nay đến cuối năm 1978, có thể ban hành một số văn bản của Chính phủ, những văn bản của ngành hoặc liên ngành quy định cụ thể những chính sách khuyến khích sản xuất màu đối với các khâu sản xuất, lưu thông, phân phối, làm nghĩa vụ, thu mua, tiêu thụ, v.v… có liên quan đến từng loại màu.

Về giá cả thu mua, phải có những quy định bổ sung thích hợp đối với từng loại màu, từng thời vụ, từng địa phương để bảo đảm vừa phát triển được sản xuất màu, vừa ổn định được giá cả ở địa phương.

II. XÂY DỰNG NHỮNG VÙNG CHUYÊN CANH MÀU TẬP TRUNG QUY MÔ LỚN CỦA NHÀ NƯỚC

[...]