HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 154-HĐBT
|
Hà Nội, ngày 14
tháng 12 năm 1983
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 154-HĐBT NGÀY 14-12-1983VỀ VIỆC HOÀN
CHỈNH CÔNG TÁC KHOÁN SẢN PHẨM CUỐI CÙNG ĐẾN NHÓM LAO ĐỘNG VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG HỢP TÁC XÃ VÀ TẬP ĐOÀN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
I. ĐÁNH GIÁ
TÌNH HÌNH
Thi hành chỉ thị số 100-CT/TƯ
ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư, đến nay có khoản 90% số hợp tác xã và tập đoàn sản
xuất nông nghiệp thực hiện khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao động và người
lao động đối với cây lúa và dần dần mở rộng đối với các cây trồng khác, chăn
nuôi và ngành, nghề.
Việc thực hiện rộng rãi hình thức
khoán mới đã phát huy mạnh mẽ tính tích cực, tự giác của xã viên, tập đoàn
viên, lôi cuốn mọi người bỏ thêm công sức, tận dụng đất đai, phân bón, áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, tận thu mùa màng,
v.v... đưa đến tăng năng xuất, sản lượng thu hoạch, nâng cao hiệu quả kinh tế,
nâng cao thu nhập của xã viên, tăng tích luỹ của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất,
thực hiện tốt hơn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Mặt khác việc thực hiện rộng rãi
hình thức khoán mới đã có tác dụng tích cực trong việc củng cố quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, đẩy nhanh tốc độ cải tạo nông nghiệp ở miền
Nam, nhiều nơi thúc đẩy việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong hợp tác
xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tốt là
chủ yếu, một số không ít hợp tác xã và tập đoàn sản xuất còn có những khuyết điểm,
liên lạc.
- Việc xác định các định mức
kinh tế - kỹ thuật để làm cơ sở cho việc cải tiến tổ chức sản xuất và quản lý của
hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và việc xác định mức sản lượng giao khoán chưa thật
sát, nhiều nơi định mức sản lượng giao khoán còn thấp.
- Việc giao khoán ruộng đất nhiều
nơi còn manh mún, chưa đúng đối tượng.
Một số tập đoàn sản xuất mới
thành lập ở Nam-bộ chưa tập thể hoá ruộng đất mà còn tình trạng đất nhà ai nấy
làm.
- Việc phân công, hiệp tác và điều
hành các khâu trong quá trình sản xuất thiếu chặt chẽ, không chú ý củng cố các
đội, tổ chuyên khâu để làm những công việc quan trọng, đòi hỏi kỹ thuật gắn với
cơ sở vật chất kỹ thuật chung.
- Việc sắp xếp sử dụng một số cơ
sở vật chất - kỹ thuật đã xây dựng, nhất là chuồng trại, sân phơi, nhà kho...
không được chú ý đầy đủ, để lãng phí, hư hỏng.
- Việc phân phối thu nhập trong
hợp tác xã chưa hợp lý, thu nhập theo ngày công của xã viên, tập đoàn viên nhiều
nơi giảm; việc trả công cho lao động làm ở các đội, tổ chuyên khâu chưa gắn chặt
với sản phẩm cuối cùng và phân phối cho lao động làm ở các ngành nghề khác chưa
thật thoả đáng; việc trả thù lao cho cán bộ quản lý chưa gắn với trách nhiệm và
kết quả điều hành sản xuất, nên ở nhiều nơi cán bộ đã dồn sức làm ruộng khoán,
lơi lỏng công tác quản lý.
- Nhiều hợp tác xã, tập đoàn sản
xuất chưa có kế hoạch mở rộng sản xuất, phát triển ngành nghề để sử dụng hết số
lao động dôi ra, chưa biết liên kết kinh doanh với hợp tác xã mua bán, hợp tác
xã tín dụng để tăng thu nhập, phục vụ sản xuất và đời sống tốt hơn. Chưa kết hợp
chặt cải tạo nông nghiệp với cải tạo công, thương nghiệp.
Nguyên nhân của những khuyết điểm,
lệch lạc ở trên chủ yếu là do các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất chưa quán triệt
và nắm vững mục đích, nguyên tắc và phương hướng cải tiến công tác khoán và còn
thiếu kinh nghiệm. Mặt khác do các cấp , các ngành thiếu kiểm tra, hướng dẫn chặt
chẽ để kịp thời phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm.
II. HOÀN CHỈNH
CÔNG TÁC KHOÁN SẢN PHẨM ĐẾN NHÓM LAO ĐỘNG VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG
Để kịp thời phát huy những ưu điểm,
khắc phục những khuyết điểm, lệch lạc trong công tác khoán sản phẩm đến nhóm
lao động và người lao động trong hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, bảo đảm thực
hiện đúng mục đích, nguyên tắc, phương hướng cải tiến công tác khoán đề ra
trong chỉ thị số 100-CT/TƯ ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư và để phù hợp với tình
hình phát triển sản xuất, Hội đồng bộ trưởng yêu cầu các ngành, các cấp chấp
hành tốt những quy định sau đây:
1. Chấn chỉnh lại
việc định mức sản lượng giao khoán cho hợp lý.
Định mức sản lượng khoán phải vừa
bảo đảm được lợi ích của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, vừa bảo đảm lợi ích của
người lao động, nâng cao thu nhập của xã viên bằng cách tăng sản lượng và tăng
giá trị ngày công là chủ yếu, khắc phục khuynh hướng định sản lượng thấp để
tăng thu nhập của xã viên bằng thưởng vượt khoán.
Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất phải
không ngừng cố gắng tăng thêm đầu tư, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới để phát triển
sản xuất và có điều kiện nâng cao sản lượng khoán.
2. Chấn chỉnh lại
việc giao khoán ruộng đất cho người lao động. Chỉ giao khoán cho người lao động
trồng trọt. Những người được phân công làm những công việc khác của hợp tác xã,
tập đoàn sản xuất thì làm những việc đó là chính, không giao ruộng khoán, trừ
những người mà công làm của họ trong năm còn thấp do không đủ việc làm thì có
thể xét giao một phần.
Không giao ruộng khoán theo bình
quân nhân khẩu, theo định xuất ăn hoặc theo bình quân lao động chung của toàn hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất. Đối với các tập đoàn sản xuất mới thành lập ở Nam-bộ,
phải tiến hành tập thể hoá ruộng đất rồi mới giao khoán. Khi giao ruộng khoán cần
chiếu cố những hộ có nhiều nhân khẩu ăn theo và chú ý cân đối lao động để các hộ
đều làm tốt cả ruộng khoán và đất vườn.
Phải điều chỉnh các định mức
giao khoán cho từng loại ruộng hợp lý để giao ruộng khoán cho xã viên được gọn,
thuận tiện cho việc sử dụng các cơ sở vật chất-kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ
khoa học - kỹ thuật và bảo đảm thực hiện quy hoạch , kế hoạch sản xuất. Khi diện
tích giao khoán cho từng người lao động đã được hợp lý, thì cần ổn định trong một
thời gian để xã viên yên tâm thâm canh trên diện tích đó.
3. Tổ chức tốt
việc phân công, hiệp tác lao động và quản lý, điều hành sản xuất trong hợp tác
xã và tập đoàn sản xuất. Việc tổ chức phân công hiệp tác lao động làm ở các
khâu phải căn cứ vào từng đối tượng sản xuất ; điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật
và công cụ sản xuất, điều kiện địa dư và dân cư, quy mô tổ chức của từng đơn vị.
Nhưng hợp tác xã, đội sản xuất, tập đoàn sản xuất nhất thiết phải quản lý, điều
hành chặt chẽ tất cả các khâu, có kế hoạch, quy trình, định mức và có hướng dẫn
, kiểm tra, nghiệm thu từng khâu, từng việc chặt chẽ, không được khoán trắng
cho xã viên.
Những việc đòi hỏi kỹ thuật phức
tạp gắn với việc sử dụng máy móc và cơ sở vật chất - kỹ thuật chung, thì nhất
thiết phải tổ chức, củng cố các đội, tổ chuyên để làm; còn những việc chưa có
cơ sở vật chất - kỹ thuật chung và lao động thủ công, sử dụng công cụ thông thường
có thể làm được thì nên giao cho xã viên nhận khoán thực hiện, gắn trách nhiệm
với sản phẩm cuối cùng.
Nghiêm cấm việc các hợp tác xã,
tập đoàn sản xuất giao ruộng đất, trâu bò cho xã viên làm từ đầu cho đến cuối,
tập thể chỉ thu một số sản phẩm để đóng thuế và lập quỹ chung theo kiểu phát
canh thu tô.
4. Đối với chăn
nuôi tập thể: Ở những hợp tác xã, tập đoàn có cơ sở chăn nuôi lợn tập trung, cần
củng cố lại chuồng trại, có kế hoạch giải quyết giống, cân đối thức ăn, phòng
trừ dịch bệnh, xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật và chế độ quản lý thích
hợp, bảo đảm chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao, trên cơ sở đó mở rộng quy mô
chăn nuôi vững chắc; cần chú trọng nuôi lợn nái để sản xuất con giống cung cấp
cho xã viên. Thực hiện giao khoán cho mỗi lao động phụ trách một số lợn cùng loại
để nuôi dưỡng theo định mức khoán, hợp tác xã bảo đảm cung cấp đủ thức ăn, các
chi phí vật chất cần thiết và trả công điểm cho hợp lý cho người chăn nuôi theo
sản phẩm giao nộp; nếu hoàn thành vượt mức kế hoạch khoán, người chăn nuôi được
thưởng thích đáng, nếu không đạt kế hoạch và thiếu trách nhiệm thì phải phạt.
Việc giao khoán cho gia đình xã viên cho chăn nuôi lợn cho tập thể thì phải căn
cứ vào định mức kinh tế - kỹ thuật để xây dựng hợp đồng khoán chặt chẽ, hợp tác
xã, tập đoàn bảo đảm cung cấp giống, thức ăn tinh, các chi phí vật chất khác và
trả công điểm, xã viên chăn nuôi và nộp sản phẩm cho tập thể theo định mức; vượt
mức khoán thì được hưởng, thiếu thì phải bù. Cũng có thể giao đất khoán cho gia
đình xã viên sản xuất thức ăn rồi giao con giống và các chi phí khác, khoán cho
họ nuôi lợn cho tập thể, nhưng phải có định mức và quản lý chặt chẽ, bảo đảm số
đầu lợn và sản lượng thịt thật sự tăng lên.
Đối với trâu bò, cần giao khoán
cho gia đình xã viên chăn nuôi trâu bò cầy kéo. Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất
phải có nội quy bảo đảm cho từng con trâu bò làm việc vừa sức và được chăm sóc
chu đáo. Những gia đình xã viên nhận nuôi, ngoài việc được trả công theo định mức,
nếu nuôi tốt, trâu bò lên loại kéo hoặc kéo dài thời gian sử dụng thì được hưởng
100% phần giá trị tăng; bê nghé sinh ra được hưởng 80% giá trị theo giá thoả
thuận; nuôi không tốt, thì phải chịu phạt tuỳ theo mức độ trách nhiệm của họ.
5. Về khoán đồi,
rừng ở trung du và miền núi, hợp tác xã và tập đoàn có thể giao cho mỗi hộ một
số diện tích đồi, rừng thích hợp để làm khoán cho tập thể. Núi đồi, rừng ở xa,
địa hình phức tạp không giao khoán được cho từng nhà thì giao khoán cho từng
nhóm lao động.
Phải tuỳ từng loại đồi, rừng mà
áp dụng cách thức và các chỉ tiêu khoán cho hợp lý. Đối với rừng cây có sẵn,
thì chọn một số loại cây chính giao cho xã viên chăm sóc, bảo vệ, khai thác và
nộp sản phẩm theo mức quy định hàng năm, còn các cây phụ, cành cây làm củi thì
xã viên được sử dụng hết hay một phần do tập thể xã viên bàn bạc quyết định. Đối
với rừng mới trồng thì giao cho xã viên chăm sóc, bảo vệ cho đến khi có khả
năng thu sản phẩm mới nghiệm thu, thanh toán, nhưng hàng năm hợp tác xã và tập
đoàn sản xuất có trích trả một số công và chi phí theo định mức chăm sóc và bảo
vệ. Đối với nơi trồng cây mới thì khoán cho xã viên trồng, đến khi chắc chắn
cây sống được mới nghiệm thu, thanh toán, rồi sau đó lại khoán tiếp cho xã viên
chăm sóc, bảo vệ như đối với rừng mới trồng. Trong thời gian mới trồng, cây còn
nhỏ, các gia đình xã viên hoặc nhóm lao động nhận khoán được trồng xen ghép một
số cây hàng năm theo sự hướng dẫn của hợp tác xã và tập đoàn sản xuất và được
hưởng hết số sản phẩm của các cây trồng xen ghép đó.
6. Đối với các
ngành nghề phải căn cứ vào đặc điểm của từng ngành nghề mà tổ chức lao động và
thực hiện khoán cho phù hợp. Những nghề cần có những lao động có kỹ thuật nhất
định làm chuyên thì cần tổ chức các đội, tổ làm chuyên, khoán sản phẩm đến đội,
tổ và đội, tổ khoán đến từng nhóm, từng người lao động. Những nghề có thể sử dụng
lao động và kỹ thuật cá nhân, nơi làm việc không cần tập trung, thì định mức
nguyên liệu và quy cách, phẩm chất sản phẩm rồi khoán cho xã viên làm, hợp tác
xã và tập đoàn sản xuất trả công cho họ bằng tiền hay bằng công điểm theo sản phẩm
làm ra. Đối với những nghề dịch vụ, hợp tác xã và tập đoàn định giá công hợp lý
rồi phân công người biết nghề làm và nộp lãi cho tập thể; tập thể phân phối
lương thực cho họ, v.v....
7. Về thanh
toán khoán và thưởng phạt.
Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất phải
có nội quy thu nộp sản phẩm cụ thể và giải quyết sớm những vấn đề xảy ra trong
quá trình sản xuất đối với từng xã viên, từng thửa ruộng để bảo đảm việc thu nộp
sản phẩm cho tập thể được đầy đủ và nhanh gọn; xử lý nghiêm minh và kịp thời những
trường hợp dây dưa không chịu nộp sản phẩm cho tập thể theo mức khoán.
Đối với những người nhận khoán,
cần thực hiện thưởng hoặc phạt 100% số sản phẩm tăng hoặc hụt so với mức khoán.
Đối với cán bộ quản lý hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, cán bộ đội và những xã
viên ở các đội, tổ lao động làm chuyên hoàn thành tốt trách nhiệm được giao thực
sự góp phần vào việc hoàn thành kế hoạch của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, kế
hoạch của đội sản xuất và đối với những xã viên ở những đội sản xuất đạt kế hoạch
giao nộp sản phẩm cho hợp tác xã, thì được hợp tác xã, tập đoàn sản xuất trích
không quá 20% số lãi trong kế hoạch để thưởng cho họ; phần thưởng này có thể được
trích bằng hiện vật. Bộ Nông nghiệp cần quy định cụ thể mức trích thưởng ở các
đội sản xuất, các ngành nghề gắn với mức độ hoàn thành kế hoạch và hướng dẫn việc
chia thưởng cho các đối tượng trên.
Đối với đội sản xuất không đạt mức
giao nộp sản phẩm cho hợp tác xã, thì những người nhận khoán không nộp đủ sản
phẩm đã phải chịu phạt nên không phạt chung tập thể đội, nhưng cán bộ đội thì
phải phạt bằng cách trừ bớt công thù lao của mỗi cán bộ; nếu hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất không hoàn thành kế hoạch thu nhập, thì cán bộ quản lý hợp tác
xã, tập đoàn sản xuất cũng phải chịu phạt như đối với cán bộ đội sản xuất.
8. Về hạch toán
và phân phối:
- Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất
phải đi mạnh vào hạch toán kinh tế, coi trọng hạch toán theo ngành, theo từng
cây, con, từng sản phẩm ngành nghề. Tính toán đầy đủ các khoản thu, chi, xác định
đúng đắn giá trị ngày công kế hoạch và mức lãi cho từng ngành và chung toàn hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất. Xây dựng giá tiêu thụ nội bộ hợp lý để bảo đảm cho hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất kinh doanh có lãi. Luôn luôn tìm ra các biện pháp
nâng cao mức lãi và giá trị ngày công của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, làm
cho phần tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, phần dùng cho phúc lợi tập thể và phần
thu từ ngày công của xã viên đều ngày càng tăng lên, từ đó tạo ra động lực mạnh
mẽ để thúc đẩy mọi người hăng hái lao động sản xuất.
- Phải làm tốt việc phân phối
thu nhập của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động kết hợp với tăng cường phúc lợi tập thể, bảo đảm đúng đắn mối quan hệ
giữa tích luỹ và tiêu dùng, kết hợp chặt chẽ phân phối bằng tiền với phân phối
bằng hiện vật (chủ yếu là lương thực) khắc phục dần tình trạng bao cấp, giảm bỏ
những chi phí chung mà hợp tác xã, tập đoàn phải gánh chịu ngoài chính sách Nhà
nước đã qui định; hết sức tiết kiệm tiền vốn, vật tư, lương thực, chống lãng
phí, tham ô. Đối với phân phối lương thực, phải bảo đảm hài hoà ba lợi ích, bảo
đảm hợp lý giữa thu nhập lương thực của người làm trồng trọt và những người làm
ngành nghề và công tác khác, bảo đảm điều hoà lương thực cho những đối tượng
thiếu ăn cần ưu tiên giúp đỡ. Đối với phân phối bằng tiền phải bảo đảm phân phối
cho ngày công của xã viên theo giá trị ngày công kế hoạch và phân phối hợp lý số
lãi, khoảng 40 - 50% để quỹ tích luỹ, khoảng 20 - 30% để quỹ công ích, khoảng
10% để quỹ dự trữ và khoảng 20% để quỹ thưởng. Ở những hợp tác xã, tập đoàn sản
xuất giỏi, thu nhập cao, tuỳ theo kết quả thu nhập của từng vụ, từng năm có thể
trích một phần thu nhập để lập quỹ bảo hiểm xã hội, tiến tới thực hiện trợ cấp
hưu trí cho những cán bộ và xã viên hết tuổi lao động.
- Cần cải tiến chế độ thù lao đối
với cán bộ quản lý hợp tác xã, đội sản xuất, tập đoàn sản xuất theo hướng gắn với
kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình, nhằm bảo đảm
cho cán bộ tập trung tâm trí, năng lực vào công tác quản lý và điều hành công
việc chung.
III. TỔ CHỨC
CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
1. Đi đôi với việc hoàn chỉnh
công tác khoán sản phẩm theo yêu cầu và những nội dung trên đây, các hợp tác
xã, tập đoàn sản xuất phải ra sức cải tiến các mặt tổ chức sản xuất và quản lý,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công tác khoán. Phải không ngừng mở
rộng sản xuất theo hướng kết hợp nông, lâm, ngư nghiệp và tiểu thủ công nghiệp,
sản xuất, chế biến và phân phối lưu thông; kết hợp củng cố xây dựng hợp tác xã,
tập đoàn sản xuất nông nghiệp với củng cố, xây dựng hợp tác xã mua bán, hợp tác
xã tín dụng; tăng cường liên kết, liên doanh giữa các đơn vị sản xuất, giữa quốc
doanh, tập thể và kinh tế gia đình, nhằm phát huy tốt nhất mọi tiềm năng của địa
phương. Phải ra sức tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản
xuất đi vào thâm canh và các cơ sở phúc lợi tập thể, bằng vốn đầu tư của tập thể;
đồng thời sắp xếp lại những cơ sở vật chất - kỹ thuật đã có, hướng vào phục vụ
sản xuất và đời sống thiết thực và có hiệu quả hơn. Phải hoàn thiện và nâng cao
các định mức kinh tế - kỹ thuật và quy trình sản xuất làm cơ sở cho việc xây dựng
và thực hiện tốt kế hoạch sản xuất, lao động, kỹ thuật, tài chính, phân phối
hàng năm và từng vụ; phát huy mạnh mẽ quyền tự chịu trách nhiệm kinh doanh, hạch
toán và quyền làm chủ tập thể của hợp tác xã, tập đoàn trong việc xây dựng và
thực hiện kế hoạch. Phải kiện toàn bộ máy quản lý hợp tác xã, tập đoàn sản xuất,
bảo đảm điều hành sản xuất, quản lý kinh tế và các mặt hoạt động có hiệu lực,
nhưng phải thật gọn nhẹ; cần có quy hoạch lựa chọn những thanh niên có trình độ
văn hoá trong các hợp tác xã, tập đoàn để đào tạo thành những cán bộ có phẩm chất
chính trị, nắm vững khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ quản lý kinh tế để tiếp bước
các cán bộ cao tuổi và chưa được đào tạo.
2. Hoàn chỉnh công tác khoán
cũng như hoàn thiện và cải tiến các mặt tổ chức sản xuất, quản lý trong các hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất không thể tách rời các chính sách kinh tế của Nhà nước
và phương thức quản lý của các ngành kinh tế. Vì vậy, các ngành của Nhà nước cần
căn cứ vào nghị quyết này và phạm vi trách nhiệm của mình sớm nghiên cứu hoàn
chỉnh các chính sách kinh tế, nhất là chính sách thu mua, giá cả, chính sách đầu
tư... nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa.
Phải củng cố các tổ chức dịch vụ
phục vụ nông nghiệp, trước hết là trên địa bàn huyện như trạm máy kéo, trạm vật
tư, trạm thuỷ nông, trạm bảo vệ thực vật, trạm thú y, v.v. không ngừng cải tiến
phương thức phục vụ của các trạm này, trên cơ sở bảo đảm thực hiện tốt hợp đồng
giữa hai bên, gắn kết quả kinh doanh phục vụ của các trạm trại, công ty với sản
phẩm cuối cùng của hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.
Trong quan hệ kinh tế giữa các
cơ quan kinh tế Nhà nước với các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất, phải bảo đảm
thật sự bình đẳng, tôn trọng quyền làm chủ tập thể của quần chúng và phải thông
qua ký kết các hợp đồng hai chiều.
Nhà nước chỉ giao chỉ tiêu pháp
lệnh cho các hợp tác xã và tập đoàn về số lượng nông sản thực phẩm chủ yếu phải
sản xuất và nộp bán cho Nhà nước theo nghĩa vụ và hợp đồng hai chiều; số lao động
Nhà nước huy động cung cấp cho các ngành hoặc theo yêu cầu phân bố lại lao động
và chỉ tiêu pháp lệnh về các tư liệu sản xuất và vật tư kỹ thuật mà các cơ quan
của Nhà nước phải bảo đảm cung ứng cho hợp tác xã, tập đoàn sản xuất theo hợp đồng
hai chiều. Hàng năm, hàng vụ, Uỷ ban nhân dân huyện, Uỷ ban nhân dân xã giao,
duyệt kế hoạch cho hợp tác xã, tập đoàn sản xuất chủ yếu là giao, duyệt các chỉ
tiêu pháp lệnh nói trên, còn các chỉ tiêu khác chỉ là hướng dẫn. Uỷ ban nhân
dân huyện cần giám sát, kiểm tra và đôn đốc các hợp tác xã và tập đoàn cũng như
các cơ quan kinh tế của Nhà nước chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ tiêu pháp lệnh
nói trên và các hợp đồng hai chiều đã ký, nếu bên nào vi phạm hợp đồng gây thiệt
hại cho bên kia thì phải xử lý nghiêm minh và bắt bồi thường.
3. Bộ Nông nghiệp là cơ quan chủ
quản giúp Hội đồng bộ trưởng tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết này. Bộ phải
phối hợp với các ngành có liên quan nghiên cứu ban hành những quy định cụ thể
nhằm hướng dẫn thi hành những vấn đề nêu trong nghị quyết này để chỉ đạo các hợp
tác xã và tập đoàn sản xuất thực hiện. Phải tăng cường công tác kiểm tra, nắm
chắc tình hình từ cơ sở, kịp thời phát huy những nơi, những việc làm tốt, uốn nắn
những nơi, những việc làm sai và phải rất chú trọng việc bồi dưỡng đào tạo cán
bộ cho các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp có
trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết này trong địa phương mình. Qua
mỗi vụ, mỗi năm sản xuất, từ hợp tác xã, tập đoàn sản xuất lên các cấp xã, huyện,
tỉnh phải tiến hành sơ kết việc thực hiện công tác khoán, để đánh giá đúng những
kết quả và phát hiện những vấn đề mới cần giải quyết, rút ra những bài học thực
tế ở mỗi đơn vị, mỗi địa phương, đề ra kế hoạch và biện pháp phát huy ưu điểm,
khắc phục khuyết điểm, không ngừng hoàn chỉnh công tác khoán. Đặc biệt cần đẩy
mạnh công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, nâng cao trình độ năng lực
chỉ đạo của cấp huyện để giúp các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất thực hiện tốt
cơ chế quản lý mới.
5. Các đoàn thể quần chúng, các
cơ quan thông tấn, báo chí cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong
quần chúng, làm cho mọi người thấy rõ vị trí, tác dụng của khoán sản phẩm trong
các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, kịp thời biểu dương và phổ biến
những kinh nghiệm làm tốt, uốn nắn, phê phán những khuyết điểm, lệch lạc, tạo
ra phong trào rộng lớn, sôi nổi và liên tục thi đua, học tập lẫn nhau trong việc
cải tiến công tác quản lý.
Hội đồng bộ trưởng yêu cầu các Bộ,
các Uỷ ban Nhà nước, các Tổng cục và Uỷ ban nhân dân các cấp nghiên cứu kỹ và
có kế hoạch làm quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết này trong phạm vi
trách nhiệm của mình.
Hàng quý, các Bộ có liên quan và
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải gửi báo cáo về
việc thực hiện nghị quyết lên Hội đồng bộ trưởng, đồng gửi Bộ Nông nghiệp.